Nuôi dê ở vùng quê Thiên Đức
Ông Trưởng chính là người đi đầu trong việc đưa con dê vào cơ cấu chăn nuôi của huyện Gia Bình. Đến nay cả huyện đã có vài chục đàn dê chủ yếu được nuôi ở những vùng đất bãi ven sông. Nhiều hộ gia đình ở các huyện khác trong tỉnh cũng đã bắt đầu chăn nuôi con vật này.
Năm 2002, nhận thấy tiềm năng của địa phương có nhiều vùng đất bãi ven sông, bờ đê rộng thuận lợi cho việc chăn thả các loại gia súc, ông Trưởng đã mạnh dạn mua 2 con dê về nuôi thử.
Nhưng do chưa biết cách chăm sóc và khâu chọn giống chưa chuẩn nên dê của gia đình nhà ông liên tục mắc bệnh và chết. Sau thời gian dài tìm hiểu, tham khảo qua sách báo và được thăm quan học tập một số mô hình nuôi dê khác bên ngoài tỉnh, năm 2010, sau khi nghỉ hưu ông Trưởng đã tiếp tục đầu tư gần 30 triệu đồng, mua 13 con dê lai Bách Thảo về nuôi.
Nguồn thức ăn cho đàn dê của ông rất đơn giản và có thể chủ động được do tự mình trồng hoặc chăn thả ở bờ đê nơi có nhiều cỏ, tận dụng công lao động lúc nông nhàn. Sau 2 năm nuôi và chăn thả, gia đình ông bán được 20 con dê giống và dê thịt thu về 60 triệu đồng.
Theo ông Trưởng, dê lai Bách Thảo là con vật dễ nuôi, sinh sản nhanh, chủ động được thời gian chăn thả, chi phí thấp nên việc chăn nuôi phát triển không khó, đặc biệt không phải bổ sung thức ăn công nghiệp. Để nuôi dê thành công và thu được lợi nhuận là không khó. Trong đó khâu chọn con giống là rất quan trọng.
Cần chọn con giống có thân hình thanh mảnh, đầu nhỏ, da mỏng, lông mịn; dê đực phải có tầm vóc to, thân hình cân đối, khỏe mạnh, không khuyết tật, đầu to, trán rộng, bốn chân thẳng, khỏe, đi đứng vững chắc…
Việc xây dựng chuồng trại cũng đơn giản, chỉ phải làm nền bằng tre, nứa cách mặt đất khoảng 1m để đảm bảo thoáng mát vào mùa hè, ấm áp về mùa đông. Thường xuyên dọn vệ sinh chuồng, không để phân đọng lại trên nền chuồng, trong chuồng phải có máng ăn, máng uống nước để bổ sung thêm thức ăn cho dê.
Định kỳ tẩy uế chuồng trại, dê sẽ phát triển tốt, ít rủi ro dịch bệnh. Nuôi dê lai Bách Thảo ít phải đầu tư thức ăn chăm sóc lại cho hiệu quả cao. Trung bình mỗi con dê cái 1 năm đẻ 2 - 3 lứa, mỗi lứa đẻ được 2 - 3 con. Nếu bán dê giống thì khoảng 3 - 4 triệu đồng/con.
Nuôi dê thịt thì tính từ khi dê sinh ra đến lúc bán thương phẩm mất khoảng 6 tháng, dê đạt trọng lượng 30 - 35kg/con có giá bán trung bình khoảng 120.000 đồng/kg. Sau khi để giống khoảng 40 con để duy trì đàn, trừ chi phí, mỗi năm gia đình ông Trưởng lãi 70 - 80 triệu đồng.
“Đối với loại dê lai Bách Thảo thường cho ăn đủ dinh dưỡng và bổ sung Premic khoáng, Vitamin để tăng sức đề kháng cũng như hạn chế các dịch bệnh xuất hiện. Chỉ khó nhất là lúc chuyển mùa, thời tiết thay đổi, hoặc vào chu kỳ sinh sản dê thường mắc bệnh hô hấp rất khó phát hiện. Vì thế thời gian đó cần theo dõi chặt chẽ và tiêm ngừa các loại thuốc phòng dịch và điều trị kịp thời khi dê mắc bệnh. bệnh mỗi ngày”, ông Trưởng chia sẻ kinh nghiệm.
Với sự cần cù, sáng tạo và quyết tâm phấn đấu vươn lên trong phát triển kinh tế của ông Trần Danh Trưởng thì mô hình nuôi dê lai Bách Thảo của ông thực sự đã và đang trở thành mô hình mang lại hiệu quả kinh tế và tạo ra một hướng phát triển kinh tế mới cho người chăn nuôi trong vùng.
Có thể bạn quan tâm

Theo báo cáo của Chi cục Thú y và các địa phương, từ đầu năm đến nay, chỉ tính riêng tại địa bàn huyện Long Điền (Bà Rịa Vũng Tàu), diện tích nghêu bị chết đã lên đến trên 40ha, gây thiệt hại rất lớn cho người dân.

Những tháng đầu năm 2015, thời tiết diễn biến phức tạp, nắng nóng kéo dài, xen lẫn những cơn mưa trái mùa làm cho việc quản lý môi trường ao nuôi tôm trở lên khó khăn hơn, tạo điều kiện cho dịch bệnh trên tôm bùng phát, gây thiệt hại cho người nuôi.

Để kiểm soát tốt dịch bệnh trên nuôi thủy sản, chủ yếu là các vùng nuôi tôm nước mặn, lợ giảm thiệt hại cho người nuôi tôm và giảm thiểu tồn dư kháng sinh trong sản phẩm thủy sản, trong vụ tôm 2015, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) đã chỉ đạo các ngành liên quan tăng cường công tác thú y thủy sản.

Thời gian qua, các ngành chức năng và các địa phương trên toàn tỉnh Quảng Bình đã tích cực khuyến cáo, hướng dẫn người dân ứng dụng công nghệ sinh học (CNSH) vào sản xuất, đặc biệt là sử dụng chế phẩm sinh học một cách rộng rãi trong nuôi tôm như: EM, Probiotic, Prebiotic... nhằm xử lý môi trường ao nuôi thay thế việc xử lý bằng hóa chất; các loại chế phẩm sinh học bổ sung men đường ruột để hỗ trợ tiêu hóa giảm hệ số thức ăn, nâng cao sức đề kháng phòng trừ dịch bệnh.

Cá sông Đà từ lâu đã trở thành nhu cầu thưởng thức ẩm thực của người dân trong và ngoài tỉnh. Chưa được chính thức công nhận, nhưng cá sông Đà trong tâm thức của nhiều người đã là thương hiệu. Thương hiệu bởi được nuôi dưỡng và phát triển ở vùng hồ đặc thù, lưu vực lớn tập hợp trên một trăm loài cá, là vùng nước sạch chưa bị tàn phá bởi ô nhiễm môi trường.