Nhìn Lá Bón Phân Cho Lúa
Trong giai đoạn sinh trưởng lúa bị sâu bệnh tấn công nhiều, gây thiệt hại nặng về kinh tế cho nông dân cũng như môi trường do phải sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để phòng trừ sâu bệnh.
Trong bón phân cho lúa, khi bón thừa phân đạm sẽ gây nên đổ ngã giai đoạn trổ và hình thành hạt. Khi lúa đổ năng suất giảm lúc thu hoạch và còn gây ra lúa lép nhiều, chất lượng gạo kém, giá bán thấp, lợi nhuận giảm.
Đặc biệt, trong giai đoạn sinh trưởng lúa bị sâu bệnh tấn công nhiều, gây thiệt hại nặng về kinh tế cho nông dân cũng như môi trường do phải sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để phòng trừ sâu bệnh. Thừa đạm còn gây ô nhiễm môi trường do lượng nitrat chảy vào trong nguồn nước hoặc tồn dư nitrat trên hạt sẽ không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu.
Có thể khắc phục bằng cách áp dụng bảng so màu lá lúa, có các thang màu hướng dẫn nông dân bằng trực quan khi đối chiếu màu lá lúa với các thang màu. Từ đó có thể biết được lúa đang thiếu, đủ hay thừa đạm để áp dụng phân bón thích hợp nhằm tránh thừa đạm.
Vụ hè thu và thu đông tổng lượng phân bón áp dụng cho phân nguyên chất là từ 60 – 85kg N + 25 – 50kg P2O5 + 30kg K2O. Tương đương với một lượng phân thương phẩm là từ 130 – 180kg urê + 152 – 303kg super lân + 50kg KCl cho 1ha.
Thời kỳ bón và nhìn lá bón phân:
Giai đoạn 7 - 10 ngày sau sạ (NSS): Lân bón từ 25 - 35kg P2O5 + 30kg K2O + 20 - 25kg N cho 1ha. Có thể sử dụng tỷ lệ lân cao hơn nếu bón vụ trước ít hơn 30kg P2O5/ha và nếu đất luân phiên ướt và khô thì áp dụng từ 40 - 50kg P2O5/ha.
Giai đoạn 18 - 22 NSS, lúc này là giai đoạn lúa đâm chồi cần sử dụng bảng so màu lá lúa để đối chiếu. Nếu thang màu 4, không nên áp dụng phân N.
Giai đoạn 30 - 53 NSS, lúc lúa hình thành gié, sử dụng bảng so màu lá lúa để điều chỉnh lượng N. Nếu thang màu 4, không nên áp dụng phân N.
Nghiên cứu của ngành nông nghiệp cho thấy ruộng lúa vụ hè thu bón mức đạm 100kg N/ha biểu hiện màu xanh thời kỳ lúa đứng cái quá mức bình thường (thừa đạm) so với mức 80kg N/ha lúa có màu hơi vàng chanh và cây mọc khỏe.
Cách sử dụng bảng so màu: Đầu tiên chọn ngẫu nhiên 10 cây hoặc bụi lúa không sâu bệnh trong ruộng với mật độ đồng đều. Sau đó chọn lá cao nhất phát triển đầy đủ từ mỗi cây hoặc bụi. Đặt phần giữa lá này trên thang màu và so màu lá với thang màu.
Không nên tách ra hoặc làm hư lá lúa rồi so màu lá trong bóng râm của cơ thể để tránh nắng rọi trực tiếp làm đổi màu lá. Nên chỉ so màu với một người với cùng thời gian trong ngày cho mỗi lần so màu lá. Cuối cùng so 10 lá rồi tính giá trị trung bình của thang màu.
Bảng so màu lá lúa có 4 thang màu với các mức màu từ trái sang: Màu xanh thừa đạm; màu xanh đủ đạm; màu hơi vàng thiếu đạm ít; màu vàng nhiều lúa thiếu đạm.
Có thể bạn quan tâm
Trong môi trường gây mặn nhân tạo, ở giai đoạn cây con, giống lúa lai 3 dòng LY2099 có khả năng chịu độ mặn 5‰.
Trước tình hình trên bà con cần lưu ý một số biện pháp kỹ thuật để phòng chống rét cho diện tích lúa mới cấy và mạ sau khi gieo như sau:
Do ảnh hưởng của các đợt không khí lạnh từ phía Bắc tràn xuống, những ngày vừa qua thời tiết ở các tỉnh Nam bộ đã trở lên rất lạnh, nhiều nơi đêm và sáng sớm
Bệnh đạo ôn thường gây hại trên trà lúa từ giai đoạn đẻ nhánh cho đến trổ chính do nấm Pyricularia oryzae gây ra. Bào tử mầm nẩy mầm ở nhiệt độ 24 - 28 độ C
Tình hình khí hậu thay đổi thất thường, dịch hại ngày một diễn biến phức tạp và xuất hiện sớm ở khu vực ĐBSCL nhất là bệnh đạo ôn trên lúa Hè Thu