Mường Chà tập trung chăm sóc lúa mùa
Để ổn định và nâng cao đời sống nhân dân các dân tộc trên địa bàn, những năm gần đây, UBND huyện Điện Biên Đông chỉ đạo các cơ quan chức năng đẩy mạnh hướng dẫn nông dân áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đưa những giống cây trồng vật nuôi có năng suất, chất lượng cao đến với bà con nông dân. Qua đó, giúp nông dân chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, góp phần quan trọng đẩy nhanh công cuộc xóa đói giảm nghèo tại địa phương.
Cụ thể hóa quan điểm nêu trên, từ nguồn vốn Nghị quyết 30a/CP và vốn sự nghiệp nông nghiệp, Trạm Khuyến nông - Khuyến ngư (KNKN) huyện triển khai mô hình trồng cây đậu tương, loại giống DT 84 trên đất lúa một vụ thuộc các bản: Háng Trợ A, B, C, xã Pu Nhi. 51 hộ tham gia mô hình được Nhà nước hỗ trợ 100% giống, phân bón và được hỗ trợ kỹ thuật trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh. Người dân tận dụng được diện tích đất bỏ hoang trên chân ruộng lúa 1 vụ (tổng diện tích lúa 1 vụ trên địa bàn bản Háng Trợ A, B, C là 42,3ha); tận dụng lượng phân hữu cơ sẵn có tại địa phương...
Để Dự án đạt hiệu quả cao, các cán bộ kỹ thuật Trạm KNKN huyện luôn bám cơ sở hướng dẫn bà con thực hiện hiệu quả kế hoạch, nội dung dự án. Với phương châm “cầm tay chỉ việc”, các lớp tập huấn kỹ thuật được thực hiện ngay tại ruộng từ cách làm đất, gieo hạt, bón phân, làm cỏ đều được cán bộ kỹ thuật trực tiếp làm mẫu. Ngoài ra, việc kiểm tra đồng ruộng, áp dụng đúng quy trình kỹ thuật được tiến hành thường xuyên. Cán bộ kỹ thuật Trạm KNKN hướng dẫn nông dân cách phát hiện và phòng trừ sâu bệnh: sâu ăn lá, rầy xanh, rệp...
Đặc biệt là phòng trừ sâu bệnh trong thời kỳ đậu tương chuẩn bị ra hoa và ra quả. Do thời tiết vụ đông xuân 2014 - 2015 diễn biến phức tạp: thời gian rét kéo dài, nên tới trung tuần tháng 2/2015, cán bộ kỹ thuật Dự án mới hướng dẫn các hộ tham gia mô hình gieo hạt. Do làm tốt công tác chuẩn bị đất gieo trồng và thời tiết thuận lợi, sau 5 - 7 ngày gieo, tỷ lệ nảy mầm trung bình đạt 90 - 95% diện tích canh tác. Sau thời gian sinh trưởng 90 ngày, đậu tương cho thu hoạch, năng suất trung bình đạt 1,7 tấn/ha. Với giá bán hiện nay khoảng 15.000đồng/kg, trung bình một héc ta trồng đậu tương sẽ cho thu về khoảng 25,5 triệu đồng, trừ các loại chi phí nông dân có lãi khoảng 9 triệu đồng/ha.
Ông Sùng A Châu, Trưởng bản Háng Trợ cho biết: Thông qua mô hình, hầu hết người dân trong bản nhận thấy canh tác đậu tương không khó, mà mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn trồng một số loại cây khác như ngô, khoai. Bên cạnh đó, trồng đậu tương giúp đất thêm màu mỡ, vụ sau trồng cây gì cũng cho năng suất cao hơn, vì vậy, nhiều hộ đã giữ giống cho vụ đông xuân sau. Ngoài hiệu quả kinh tế, Dự án còn giúp bà con nông dân tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật, chăm sóc phòng trừ sâu bệnh cho đậu tương, nắm bắt kỹ thuật bón phân cân đối giữa các loại phân chuồng, phân lân, phân kali, bón đúng, bón đủ; người dân cũng nắm được kỹ thuật tỉa bớt cây, xới xáo cho đất tơi xốp tạo đà cho rễ phát triển nhanh và vun luống cao giúp cây chống đổ khi có mưa lớn...
Từ đó, giúp nông dân đổi mới nhận thức mùa vụ, loại bỏ những cây kém chất lượng, tạo ra giống thuần chủng, chủ động giữ giống cho vụ sau. Thâm canh đậu tương còn làm cho đất được cải tạo, tăng thêm nguồn phân hữu cơ cho đất. Thành công từ mô hình đã góp phần quan trọng đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần phát triển nông nghiệp bền vững tại địa phương.
Trung tuần tháng 5/2015, khi đoàn công tác Huyện ủy, UBND huyện Điện Biên Đông đi kiểm tra thực địa đánh giá hiệu quả mô hình khuyến nông trồng đậu tương trên đất lúa một vụ tại các bản Háng Trợ A, B, C (xã Pú Nhi), đại diện các hộ dân nơi đây đề nghị với đoàn công tác: mong muốn được tiếp tục nhận được hỗ trợ của Nhà nước để người dân trên địa bàn phát triển, mở rộng diện tích canh tác trồng đậu tương trên đất lúa một vụ. Đồng thời, cam kết những năm tiếp theo, dân bản sẽ tận dụng 100% diện tích đất lúa một vụ trên địa bàn trồng đậu tương. Đây là điều đáng mừng khi người dân có chuyển biến tích cực về nhận thức trong chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, góp phần tích cực vào công cuộc giảm nghèo bền vững tại địa phương.
Có thể bạn quan tâm
Khai Thác Cá Đồng Mùa Lũ Rút Dư Thừa Nguồn Nguyên Liệu Để Làm Mắm Cá Chốt! Anh Nguyễn Mạnh Cường, chủ vựa cá ở phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc cho biết: Giá cá chốt từ đầu vụ bán cho người làm mắm được 10.000 đồng/kg. Nhưng do nguồn nguyên liệu ứ thừa, nên từ hai tháng nay, không còn người mua để chế biến các loại mắm, đành phải hạ giá xuống còn 7.000 đồng/kg bán làm thức ăn gia súc!
Ninh Thuận Triển Khai Kế Hoạch Nuôi Tôm Nước Lợ Năm 2015 Trong năm 2015, Chi cục Nuôi trồng thủy sản khuyến cáo bà con ổn định diện tích, thả giống đúng lịch thời vụ. Đẩy mạnh liên kết sản xuất, thành lập các Tổ hợp tác nuôi tôm quy mô lớn, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất; tăng cường công tác quản lý chất lượng con giống, thức ăn, chế phẩm sinh học, đảm bảo lợi ích cho các hộ nuôi…
Thanh Tân (Thái Bình) Ðẩy Mạnh Chăn Nuôi Theo Quy Trình VietGAP Trao đổi với chúng tôi, ông Bùi Mạnh Hà, Chủ tịch UBND xã Thanh Tân cho biết: Ðể tạo điều kiện cho người dân phát triển chăn nuôi theo hướng VietGAP xã hỗ trợ 100% vỏ hầm biogas, thành lập câu lạc bộ chăn nuôi cho người dân tham gia học tập và chia sẻ kinh nghiệm.
Hiệu Quả Từ Mô Hình Hợp Tác Xã Chăn Nuôi Gà Đồi Ông Thành cho biết: Con giống tự tìm nên không chuẩn, do nhiều giống gà khác nhau, nên khó khăn cho việc chăm sóc, phòng, chống dịch bệnh. Bên cạnh đó, việc tìm nguồn thức ăn chăn nuôi cũng gặp không ít khó khăn, giá thành khi mua lẻ các loại thức ăn gia cầm từ các cửa hàng cao, trừ chi phí, lãi thu về không nhiều.
Bắc Giang Chống Rét Cho Vật Nuôi Không Đổ Bệnh Anh Tô Vũ Lực cho biết: “Gia đình tôi có 4 sào ao nuôi cá giống và cá thương phẩm. Đây là nguồn thu nhập chính của gia đình nên cách đây hơn một tuần, vợ chồng tôi đã xin bèo về thả trên ao để hạn chế gió lạnh. Mấy hôm nay, nhiệt độ xuống thấp, tôi căng thêm bạt trên mặt ao và đóng bè bằng tre nứa thả xuống đáy để cá trú ẩn, tránh rét”.