Mối nguy hại từ sán lá ở cá giống

Ký sinh trùng nguy hiểm
Sán lá ký sinh trên cá nước ngọt chủ yếu là giống sán lá đơn chủ 16 móc (Dactylogrus) và sán lá 18 móc (Gyrodactylus). Sán ký sinh chủ yếu trên da, vây, mang của cá. Các vùng da, mang bị sán lá ký sinh có hiện tượng viêm loét, dễ dàng cho vi khuẩn, nấm... xâm nhập gây bệnh cho cá. Khi cá bị nhiễm sán nặng, các tổ chức tế bào sưng to, xương nắp mang phồng lên, cơ thể thiếu máu dẫn đến cá gầy yếu, bơi lội chậm chạp. Cá ít hoạt động, nằm ở đáy ao hoặc nổi lên mặt nước đớp không khí, mất khả năng vận động, bơi ngửa bụng và chết.
Theo những nghiên cứu thì giống sán lá đơn chủ 16 móc và sán lá 18 móc (có rất nhiều loài) ký sinh trên nhiều loại cá nuôi và cá tự nhiên nước ngọt như cá chép, mè, rô phi, cá tra, basa… Đối với cá tra ở giai đoạn cá hương và cá giống (3 - 5cm) thì tỷ lệ nhiễm sán lá lên tới 100% và mật độ nhiễm > 70 sán/cá, thậm chí cá bị nhiễm sán lá với mức độ nguy hiểm là trên 10 sán/cung mang.
Phòng bệnh sán lá ở cá giống
Sán lá thường xuất hiện vào mùa mưa và lây nhiễm nhanh, đặc biệt trong ao nuôi có mật độ dày, điều kiện ao ương, nuôi kém, nhiệt độ nước thích hợp cho sán lá phát triển từ 22 - 280C. Để phòng bệnh sán lá cho cá cần thực hiện những biện pháp như: tẩy dọn ao ương cá giống, ao nuôi bằng vôi CaO với liều lượng 7 - 10 kg/100m2, khử trùng nước ương nuôi cá giống bằng một số hóa chất như BKC, thuốc tím, Iodine.
Trước khi thả cá giống nên kiểm tra sán lá trên da, vây, mang. Tắm cho cá bằng thuốc tím 10 - 20mg/l, tắm trong 15 - 30 phút; nước muối 3 % trong 5 phút trước khi thả. Khi cá nhiễm bệnh có thể trị bệnh cho cá bằng Formol 40 - 50 mg/l, H2O2 100 - 120 mg/l. Không ương nuôi cá giống với mật độ quá dày, quản lý tốt chất lượng nước trong ao ương cũng góp phần làm giảm tỷ lệ nhiễm sán ở cá giống.
Sán lá ở cá có thể gây bệnh cho người do ăn gỏi cá, cá chưa nấu chín. Vì vậy, việc phòng ngừa loại bỏ sán lá khỏi cá, đảm bảo cá trở thành loại thực phẩm an toàn là rất cần thiết.
Tags: san la ca giong, nuoi ca, nuoi trong thuy san
Có thể bạn quan tâm
Có 2 hình thức nuôi chính: nuôi trong lồng treo trên bè hoặc giàn treo cố định, gọi tắt là "nuôi treo” và nuôi trên mặt bãi tự nhiên hoặc bãi cải tạo, gọi tắt là "nuôi đáy".
Chúng tôi xin giới thiệu một mô hình mới được nhiều bà con quan tâm là mô hình nuôi chạch đồng.

Cá còm hay còn gọi là cá nàng hai, đây là loài cá nước ngọt có nhiều ở đồng bằng Nam Bộ. Mùa sinh sản của cá còm trong tự nhiên từ tháng 5 – 7, cá giống có từ tháng 8 và kéo dài đến cuối năm. Người dân thường tận dụng diện tích mặt nước kênh rạch cạnh nhà khi mùa nước nổi tràn đồng để nuôi cá còm trong lồng bè và ao hầm. Tuy nhiên, để nuôi cá đạt năng suất cao, người nuôi cần tuân thủ theo đúng quy trình kỹ thuật.

Các chế độ chăm sóc, quản lý, thiết kế lồng nuôi và chọn mật độ thả thích hợp là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến vụ nuôi tôm. Một số lưu ý dưới đây nhằm giúp tăng năng suất trong nuôi tôm hùm lồng thương phẩm.
Có hai hình thức nuôi cá đối mục trong ao đất, đó là: Nuôi đơn: cá đối mục được nuôi bán thâm canh và thâm canh trong các ao nuôi chuyên canh; Nuôi ghép: cá đối mục thường được nuôi ghép với các loài cá khác như cá chép thường, cá trắm cỏ, cá chép bạc, cá rô phi và cá măng biển; có thể nuôi được trong vùng nước lợ, nước ngọt và nước mặn.