Lợn con có thể phát triển mạnh nhờ bột hướng dương
Với một phương pháp chế biến mới lạ, nguyên liệu thức ăn như khô dầu hạt cải cũng như bột hướng dương có thể được sử dụng trong thức ăn của lợn con, vì nó giúp tiêu hóa tốt hơn. Theo nghiên cứu gần đây, cách này có thể thay thế đậu nành đắt tiền.
Trong ảnh: Hoa hướng dương. Lợn có thể phát triển tốt nhờ tăng cường chế độ ăn uống có chứa bột hướng dương. Ảnh: Oleksandr Umanets | Dreamstime.com
Có hai chủ đề chính chi phối các cuộc tranh luận cộng đồng xung quanh công thức pha trộn thức ăn chăn nuôi. Trước hết, người ủng hộ chủ nghĩa nhà nước phúc lợi động vật đang thảo luận để nâng cao hàm lượng các chất xơ thô. Trong dự thảo luật để thay đổi pháp luật bảo vệ động vật của Đức vào năm 2013, mức 5% được yêu cầu. Vào thời điểm đó, điều này được chứng minh là đúng bởi lượng chất xơ thô cao hơn sẽ mang lại sức khỏe đường ruột tốt hơn. Tuy nhiên, mức 2,5-4% trở nên phổ biến.
Người chăn nuôi thường phản hồi rằng hàm lượng chất xơ cao làm giảm khả năng tiêu hóa thức ăn và do đó dẫn đến hiệu suất tồi tệ hơn cũng như mức độ bài tiết cao hơn - đó là một vấn đề nan giải. Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây ở Schwarzenau, Bavaria, Đức, cho thấy khoảng 5% chất xơ thô trong thức ăn của lợn con không dẫn đến hiệu suất tồi tệ hơn.
Một chủ đề khác được thảo luận rộng rãi là đậu nành - và được nhiều tổ chức phi chính phủ (NGO) ưa thích hơn để giảm bớt việc sử dụng các phiên bản biến đổi gen chiết xuất từ bột đậu nành. Điều này liên quan đến việc trồng ở Bắc và Nam Mỹ, mà khó có thể được gọi là bền vững. Tuy nhiên, đậu nành, trồng ở châu Âu (không biến đổi gen) có thể được chấp nhận.
Thức ăn chăn nuôi được chế biến dưới áp suất thủy nhiệt. Ảnh: Manfred Weber
Điều trị công nghệ đa tầng
Việc làm cho các mối quan tâm thống nhất với nhau là nhiệm vụ của các viện như Viện Nhà nước đối với nông nghiệp và trồng trọt (LLG) của Saxony-Anhalt ở Đức. Trong việc tìm kiếm các giải pháp, cối xay thức ăn từ Croatia được cho là cung cấp những ý tưởng thích hợp. Công ty Fanon từ Petrijanec, không cách xa biên giới Hungary và Slovenia, đang áp dụng một quá trình gọi là "điều hòa và hóa lỏng lâu dài (LTCL). Chìa khóa ở đây là phương pháp điều trị công nghệ đa tầng cho thức ăn chăn nuôi, ví dụ như bao gồm cả cấu trúc đặc biệt; nguyên liệu thô phụ thuộc vào điều hòa hơi nước, được thực hiện theo quá trình chế biến dưới áp suất thủy nhiệt.
Bằng cách này, đậu nành không biến đổi gen, trồng ở Croatia, có thể được xử lý để mà hoạt động urease bị loại bỏ và giảm thức ăn kháng dinh dưỡng. Điều tương tự cũng áp dụng cho các thành phần protein như bột hướng dương hay các sản phẩm từ khô dầu hạt cải, có thể được sử dụng trong khẩu phần thức ăn sau quy trình công nghệ này. Ở Croatia, hoạt động này xảy ra chủ yếu trong sản xuất gia cầm.
Thức ăn cho lợn được chế biến như thế nào?
Ý tưởng này đến từ LLG để thiết lập một thử nghiệm tương tự cho lợn con. Trong công thức thức ăn của các khẩu phần thí nghiệm cho giai đoạn cai sữa và phát triển, việc sử dụng bột đậu nành đã hoàn toàn bị cấm, cũng xem Bảng 1. Đậu nành có mặt trong thức ăn đối chứng, bột chiết xuất từ hoa hướng dương và khô dầu hạt cải được sử dụng như protein và các nguồn chất xơ trong thức ăn thử nghiệm. Đây là lần đầu tiên chế biến qua quá trình LTCL.
Bảng 1 - thành phần thức ăn của cuộc thử nghiệm * Profiferm, một sản phẩm bao gồm 50% bột hướng dương và 50% bột hạt cải theo LTCL; phương pháp ** MucoDigest, Gelamin.Created với LocalFocusBy All About Feed
Tỷ lệ phần trăm | 1. Chế độ ăn khởi đầu | 2. Chế độ ăn khởi đầu | 1. Chế độ ăn tăng trưởng | 2. Chế độ ăn tăng trưởng |
Tỷ lệ phần trăm | - | - | - | - |
Ngô | 24.9 | 21.7 | 30 | 30 |
Bột mì | 20 | 20 | 22 | 20 |
Ngô đã chế biến | 12.5 | 12.5 | 5 | 5 |
Đậu nành được chế biến | 12.5 | 12.5 | 5 | 5 |
Lúa mạch | 10 | 10 | 15 | 8 |
Bột hoa hướng dương & dầu hạt cải * | - | 11 | - | 26.6 |
Bột đậu nành 46 | 7.8 | - | 17.1 | - |
Bột nước sữa | 4 | 4 | - | - |
Protein dễ tiêu hóa** | 3 | 3 | - | - |
Hỗn hợp vi lượng & khoáng chất | 5.3 | 5.3 | 5.9 | 5.4 |
Hiệu quả của quá trình này có thể được chứng minh bằng cách hiển thị sự khác biệt trong nồng độ chất xơ thô, chất xơ không tan trong dung dịch trung tính (NDF) và chất xơ không hòa tan trong axit (ADF) trong giá trị tính toán cũng như phân tích. Các giá trị cao của chất xơ thô, ADF và NDF, được tính toán trên cơ sở giá trị tiêu chuẩn, thì không được tìm thấy ở phân tích.
Mặc dù mức độ xơ thô là 6,9% được tính toán trong thức ăn tăng trưởng của nhóm thử nghiệm nhưng trên thực tế chỉ có 4,6%. Điều đó chứng tỏ là do chất xơ, các chất xơ thô hầu hết được tiêu hóa tốt hơn trong ruột già, vì vậy quá trình lên men dễ dàng hơn.
Để kiểm tra điều này, một thử nghiệm cho ăn diễn ra tại LLG ở iDEN với cả hai loại nguyên liệu thay thế, là bột hướng dương và khô dầu hạt cải. Các thử nghiệm được tiến hành với 200 lợn con lai, một nửa nhận chế độ ăn đối chứng (bột đậu nành) và còn lại nhận chế độ ăn thử nghiệm (bột hướng dương và khô dầu hạt cải). Tổng cộng, các thử nghiệm được lặp đi lặp lại năm lần liên tiếp. Tỷ lệ lợn đực và cái là giống hệt nhau ở cả hai nhóm. Các kết quả phân tích thức ăn cho thấy có sự tương đồng rất lớn với dữ liệu tính toán liên quan đến giá trị protein và axit amin. Các giá trị năng lượng thậm chí còn cao hơn so với tính toán, nhưng chúng có thể so sánh giữa các nhóm.
Bảng 2 - Lượng thức ăn trung bình đã được sử dụng trong cả năm thử nghiệm
Nhóm động vật | Ngày thứ 21 | Ngày thứ 22-43 | Tổng cộng mỗi ngày (g) |
Đối chứng | 393 | 1.019 | 706 |
Thử nghiệm | 435 | 1.028 | 731 |
Hầu như không khác biệt lúc tăng trưởng
Hình 1 thể hiện sự phát triển của lợn con.Trong 5 giai đoạn thử nghiệm, có thể nhìn thấy sự khác biệt đáng kể ở giai đoạn phát triển đầu tiên. Ở giai đoạn này, lợn con của nhóm thử nghiệm tăng 25 g mỗi ngày. Ở giai đoạn 2, lợn con của nhóm đối chứng có trọng lượng bằng nhóm thử nghiệm, vì vậy không nhận thấy sự khác biệt suốt toàn bộ giai đoạn phát triển. Tóm lại, cả hai phương pháp cho ăn đều mang lại kết quả cao. Không dùng bột đậu nành cũng không gây ảnh hưởng xấu. Việc thay thế bột đầu nành với bột hướng dương và khô dầu hạt cải được xử lý thủy nhiệt mang lại giá trị như nhau.
Đối với sử dụng và chuyển đổi, hầu như không có bất kỳ sự khác biệt giữa các chế độ ăn, xem bảng 2 và 3. Lượng thức ăn và tiêu hóa giống hệt nhau ở cả hai chiến lược. Điều này có thể được xác nhận rằng thành phần bột hướng dương và khô dầu hạt cải, thường không dễ tiêu hóa cho lợn con, có thể được trộn với tỷ lệ khá lớn, và được chứng minh là sử dụng cho động vật sau khi đã qua quá trình thủy nhiệt. Sau khi qua LTCL, các thành phần protein thậm chí có thể thay thế hoàn toàn bột đậu nành. Thử nghiệm cũng quan sát phân. Dưới đây là ảnh hưởng rõ ràng của chất xơ. Lợn con nhóm thử nghiệm có phân ổn định hơn, đây là dấu hiệu của sức khỏe đường ruột tốt hơn.
Bảng 3 - chuyển đổi thức ăn, trung bình trong năm cuộc thử nghiệm.
Nhóm động vật | Ngày thứ 21 | Ngày thứ 22-43 | Tổng cộng |
Đối chứng | 1.4 | 1.52 | 1.48 |
Thử nghiệm | 1.41 | 1.55 | 1.51 |
Kết luận
Một thử nghiệm thức ăn đối với lợn trưởng thành đã cho thấy rằng với các thành phần thức ăn tinh chế như bột hướng dương và khô dầu hạt cải có thể thay thế thích hợp cho bột đậu nành trong thức ăn tăng trưởng. Hơn nữa, tỷ lệ của chất xơ thô trong thành phần này không ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng và quá trình tiêu hóa. Trái lại: tác động tích cực đến sức khỏe đường ruột trên cơ sở khuôn phân tốt hơn.
Bài viết này xuất hiện đầu tiên ở Đức trong DLZ Agrarmagazin Primus Schwein.
Có thể bạn quan tâm
Vấn đề sau cai sữa ở lợn con có thể dễ dàng xảy ra từ 7-10 ngày. Tuy nhiên, một số trang trại quản lý tốt, có thể mất 1 hoặc 2 ngày. Hiểu biết những gì đang xảy
Toàn bộ dây chuyền sản xuất lợn ở bang Mecklenburg-Tây Pomerania nước Đức đang nỗ lực hợp tác để thoát khỏi sự phụ thuộc vào nhập khẩu đậu tương.
Methionin lỏng bổ sung vào chế độ ăn của lợn nái đang cho con bú dẫn đến nồng độ chất béo và đường lactose trong sữa cũng như sự hấp thu các chất dinh dưỡng