Kỹ Thuật Phòng Và Trị Bệnh Cho Cá Chình
Để phòng bệnh cho cá ta phải bắt đầu từ giai đoạn thả giống. Trước khi thả cá, ta cải tạo và xử lý nước thật kỹ bằng vôi công nghiệp và Vimekon. Cá giống trước khi thả nên tắm bằng muối (4 – 5kg/100 lít nước để diệt khuẩn, nấm, ký sinh trùng…). Đối với cá lớn thường có những bệnh sau:
Bệnh thối mang:
Nguyên nhân: Do vi khuẩn dạng sợi Myxococus piscicolas gam âm gây ra, do ao, lồng, bè không được vệ sinh tốt, quá nhiều mùn bã hữu cơ.
Triệu chứng: Vi khuẩn xâm nhập vào phá hoại mang cá làm cho mang bị viêm loét và nắp mang bị sưng đỏ, cung mang, sợi mang có mủ, nhiều nhớt, mang bị mòn dần, xuất huyết, hoại tử. Thông thường thối mang thường kết hợp với nhiễm trùng máu và xuất huyết.
Bệnh thối vây:
Do vi khuẩn Flexibacter columnaris gây ra. Bệnh này thường xảy ra khi nhiệt độ thấp trên dưới 15 độ C, cá bị stress hoặc thiếu dinh dưỡng.
Trên cá xuất hiện những đốm trắng nhất là phần đầu và vây. Vây bị đỏ, tia màng bị hoại tử hoặc tưa rách, cá giảm ăn. Bên cạnh đó cá bị nhiễm độc tố do vi khuẩn gây ra, sau đó vi khuẩn gây tổn thương vào hệ thống tuần hoàn. Cá bị bệnh này có thể chết hàng loạt trong vòng 48 giờ.
Bệnh xuất huyết:
Do vi khuẩn Psedomonas, Aeromonas Spp.. gây ra. Bệnh này xuất hiện quanh năm do thức ăn không được quản lý tốt. Khi bị bệnh, cá xuất hiện những nốt đỏ trên thân, quan sát rõ nhất là ở hậu môn và 2 tia vây dưới bụng.
Bệnh ký sinh trùng:
Bệnh nội ký sinh do giun ký sinh trong ruột lấy hết dinh dưỡng của cá. Bệnh làm cá ốm đầu to, màu sắc sậm, chậm lớn. Nếu xảy ra ở cá con sẽ làm cho chức năng của bóng hơi bị phá hủy, không khí từ bóng hơi vào xoang cơ thể, cá mất khả năng giữ thăng bằng, nếu nhiễm ở nhiệt độ thấp cá sẽ chết.
Để trị bệnh ta tiến hành xổ lãi cho cá liên tục từ 2 – 3 ngày bằng 1 trong các sản phẩm sau: Vime-Clean:1-1,5kg/200kg thức ăn; Kill-Site:1kg/20-30 tấn cá; Parasitol:1kg/9-10 tấn cá.
Bệnh ngoại ký sinh xuất hiện nhiều nhất vào lúc giao mùa hoặc trời mưa nhiều, nhiệt độ thấp. Do nấm thuỷ mi, trùng bánh xe, rận cá và sán lá…ký sinh trên da. Bệnh làm cho da cá bị loét, viêm, nhiễm dẫn đến cá bị tuột nhớt rồi chết.
Đối với bệnh này ta có thể dùng: Fresh water: 1kg/1.500m3; Kill-Algae: 1lít/1.000m3
Biện pháp phòng và trị bệnh tổng hợp các bệnh trên như sau: Chọn giống đồng cỡ, khỏe, tốt, không nhiễm bệnh. Nên mua giống ở những cơ sở có uy tín. Cá bệnh chết được chôn vào hố cách ly, rắc vôi.
Tránh bắt cá làm xây xát, không để cá bị bệnh ngoài da tạo điều kiện cho vi khuẩn cơ hội tấn công gây bệnh phát triển. Không để cá bị sốc sẽ dễ mẫn cảm với bệnh, định kỳ 10 – 15 ngày/lần sử dụng một trong các hóa chất sau để xử lý nước: Vime-Protex: 1lít/2,000m3 nước; BKC 80%: 1kg/2.000m3 nước; Vimekon: 1kg/2.000m3 nước.
Sử dụng lúc trời mát: Sáng 7 – 8 giờ hoặc chiều 4 – 5 giờ. Sau đó có thể dùng Vime-Yucca 1kg/2.000m3 nước hoặc Zeolite hạt 20 – 30kg/1.000m2 tạt đều ao để hấp thu khí độc và làm sạch đáy ao.
Vào những lúc thời tiết lạnh, nhiệt độ thấp nên tăng cường tạt vôi nông nghiệp CaCO3 với liều lượng 20 – 30kg/1.000m3. Trong quá trình nuôi cần bổ sung đầy đủ dinh dưỡng nhất là Vitamin, Premix, để cá có sức đề kháng cao như: De-Amin, Vime-Glucan, Vitamin C Antistress, Elecamin…
Đối với các bệnh thối vây, thối mang, xuất huyết ta dùng 1 trong các hoá chất sau: Doxery (1kg/5-6 tấn cá) kết hợp với Vime-N333 (1kg/10 tấn cá) hoặc Vimefloro FDP(1lít/15tấn cá) kết hợp vớiVimenro (1kg/10 tấn cá). Ngoài ra ta có thể dùng Vime-Glucan (1kg/6 – 10 tấn cá), Glusome 115 (1kg/500 kg thức ăn) trọn với thức ăn cho cá ăn để tăng cường hệ thống miễn dịch và sức đề kháng tự nhiên cho cá.
Có thể bạn quan tâm
Cá chình có giá trị kinh tế cao, (giá thương phẩm có lúc lên đến 240.000 đ/kg) thích hợp với nhiều mô hình nuôi. Nhiều tỉnh miền Trung đang phát triển hình thức nuôi trong bể xây bằng gạch hoặc xi măng cho năng suất cao. Đây là hình thức nuôi cao sản, vì vậy đòi hỏi phải có các điều kiện nhất định
Thức ăn hỗn hợp cho cá chình hoa được chế biến từ các nguyên liệu gồm: bột cá, bột đậu nành, bột mỳ, bột cám gạo. Trong đó, tỷ lệ các nguyên liệu được chia tỷ lệ như sau
Cụ thể: Trong ao đất, nuôi với mật độ 1-2 con/m2; thời gian nuôi từ 12 - 24 tháng; khi thu hoạch, mỗi con đạt từ 1kg trở lên, năng suất khoảng 4 - 5 tấn/ha. Nuôi bể xi măng, mật độ từ 30 - 50 con/m2 trong điều kiện có sục khí, nước chảy thường xuyên đảm bảo lượng oxy 5mg/l trở lên; mực nước từ 0,8 - 1m; diện tích bể từ 10 - 100m2; độ sâu bể khoảng 1,2m; có nơi trú ẩn cho cá nghỉ ngơi; ngày cho ăn 2 lần, lượng thức ăn bằng khoảng 5 - 7% trọng lượng cơ thể cá. Nuôi bể xi măng phải hút bỏ thức ăn thừa hàng ngày và cọ rửa bể hàng tuần. Nuôi lồng với mật độ từ 50 - 100 con/m2… Thức ăn chủ yếu là các loại cá nhỏ, ốc, tôm, tép tươi, trai, ếch, nhái. Các loài này được cắt nhỏ để cho ăn.
Cá chình là loài cá có tính thích ứng rộng với độ mặn, cá có thể sống được ở nước mặn, nước lợ, nước ngọt.Cá thích bóng tối, sợ ánh sáng nên ban ngày chui rúc trong hang, dưới đáy ao, nơi có ánh sáng yếu, tối bò ra kiếm mồi di chuyển đi nơi khác.
Có lẽ đến nay các loại cá nước ngọt ở ĐBSCL về giá trị kinh tế chưa có loại nào qua mặt nổi cá chình. Hiện nay, 1 kg cá chình trị giá tương đương 3 giạ lúa. Loài cá này đang được xếp vào hàng cá dành cho đại gia. Chính giá trị kinh tế cao của nó nên đã có nông dân mạnh dạn đầu tư nuôi cá chình trong ao.