Kỹ Thuật Nuôi Cá Lóc Bằng Thức Ăn Công Nghiệp
Những năm gần đây, nông dân Bến Tre đã nuôi cá lóc nhưng còn nhỏ lẻ. Cá nuôi dễ mắc bệnh, tốn nhiều công lao động, giá thành cao, lợi nhuận thấp. Để khắc phục tình trạng trên, nông dân nên nuôi cá bằng thức ăn công nghiệp để đạt hiệu quả cao.
Môi trường nuôi ít bị ô nhiễm hơn, cá nuôi ít bệnh, công lao động giảm, mật độ nuôi dày hơn, giá thành đầu vào ổn định. Hiện nay, ở các chợ, cá lóc là nguồn thực phẩm chủ lực.
Một số giải pháp nuôi cá lóc như sau:
1/ Thiết kế ao nuôi:
Cá lóc sống và phát triển tốt ở vùng có độ mặn từ 0 đến 8 phần ngàn. Ao nuôi cá lóc có diện tích đa dạng, nhưng tốt nhất từ 500 - 2.000 m2, thiết kế theo hình chữ nhật để dễ thu hoạch sau này. Độ sâu chứa nước đảm bảo từ 2 - 2,5 m. Đặc biệt, phải có hệ thống cống cấp và thoát nước tốt.
2/ Cải tạo ao nuôi:
Nếu là ao cũ thì vét hết bùn dơ đáy ao, bón vôi 8 - 15 kg/100 m2, nếu có điều kiện thì phơi ao từ 3 - 4 ngày. Sau đó, cho nước vào ao độ sâu 1m, chú ý nước lấy vào phải lọc, tránh cá lớn vào ăn cá con sau này, 3 ngày sau thì tiến hành thả cá giống. Khi thả cá xong, mỗi tuần cấp thêm nước từ 10 - 15 cm cho đến khi đạt độ sâu qui định.
3/ Chọn giống và thả giống:
Để đảm bảo tỉ lệ sống và năng suất sau này, việc chọn mua con giống rất quan trọng, kích cỡ đạt từ 6 - 10 cm, cá phải có kích cỡ đồng đều, khỏe mạnh, không dị tật. Trước khi thả cá, dùng muối ăn pha với nước 3% để tắm cá 3 - 5 phút. Nên thả cá lúc trời mát. Mật độ thả cá tùy thuộc ao nuôi, như độ sâu, vốn, theo kinh nghiệm, có thể thả từ 10 - 50 con/100 m2.
4/ Chăm sóc và quản lý:
a) Thức ăn và cách cho cá ăn:
Thức ăn cho cá lóc phổ biến là loại Cargill. UP, CP… Tùy theo kích cỡ cá mà chọn loại thức ăn có kích cỡ cho phù hợp. Tháng đầu cho cá ăn 3 lần/ngày (sáng, trưa, chiều). Từ tháng thứ hai trở đi, cho ăn 2 lần/ngày. Khi cho cá ăn, dùng cây gõ vào cầu tạo tiếng động cho cá gom lại.
Nếu cá giống chưa quen thức ăn công nghiệp thì phải tập cho cá chuyển từ từ bằng thức ăn cá tạp sang thức ăn công nghiệp. Cách làm như sau: Dùng sàng ăn bằng tre hoặc trúc, diện tích khoảng 1 m2, khoảng cách nẹp tre cách nhau 1,5cm. Đặt cách bờ từ 4 - 5 m, nổi trên mặt nước.
Thức ăn là cá tạp còn tươi rửa sạch xay nhuyễn, mỗi lần cho ăn trộn vào 2 - 3% thức ăn công nghiệp, để nguyên cục bỏ trên sàng, cá tự động lại rỉa ăn. Cứ mỗi lần cho cá ăn thức ăn công nghiệp tăng dần lên, khoảng 10 - 15 ngày cá đã quen với thức ăn công nghiệp thì chuyển hẳn sang cho ăn thức ăn công nghiệp.
Khi cho ăn, cần trộn thêm men tiêu hóa đường ruột và vitamin C giúp cá mau tiêu hóa và tăng sức đề kháng. Chú ý khi thả cá giống được 20 ngày mới tập cho cá ăn thức ăn công nghiệp, không nên tập sớm quá làm cá dễ bị mất sức.
b) Quản lý ao nuôi:
Hàng ngày, nên theo dõi khả năng bắt mồi của cá. Nếu cá giảm ăn hoặc ăn không tăng thì có vấn đề. Một là cá có dấu hiệu bị bệnh, hai là môi trường ao bị dơ, khí độc nhiều, oxy thấp. Kiểm tra màu nước của ao nuôi để có cách thay nước hợp lý.
Thông thường, cá nuôi dễ mắc bệnh ghẻ, do đó phải theo dõi thật kỹ để phát hiện kịp thời. Khi phát hiện cá bị ghẻ, dùng thuốc IODINE nồng độ 1 ppm tạt xuống ao. Nếu bị ít thì dùng thuốc 1 lần, nếu cá bệnh nhiều thì xử lý 2 lần. Mỗi lần cách nhau 5 ngày.
Khi nuôi cá được 2 tháng, có thể dùng vi sinh định kỳ để xử lý đáy ao giúp giải phóng khí độc (vi sinh xử lý theo nhà sản xuất). Khi còn nhỏ, cá thường vào mé bờ, dễ bị chim, cò ăn nên cần có biện pháp giúp cá ít hao hụt (dùng lưới rào xung quanh mé mương). Khi cho cá ăn, nên rải thức ăn từ từ, tránh để thức ăn dư thừa.Theo dõi sự tăng trưởng của cá để có cách xử lý thích hợp.
5/ Thu hoạch:
Nuôi khoảng 5 tháng, cá đạt trọng lượng trung bình từ 2 - 3 con/kg thì thu hoạch, cũng có thể để cá lớn hơn tùy theo thị trường tiêu thụ. Khi thu hoạch bằng rọ, tránh để cá bị xây xát, bảo quản cá sống lâu hơn. Nếu quản lý và chăm sóc ao nuôi tốt, thì hệ số chuyển hóa thức ăn từ 1 - 1,4 kg được 1 kg cá. Tỉ lệ sống trung bình từ 60 - 80%.
Có thể bạn quan tâm
Vì là loài cá dữ chuyên bắt mồi sống nên giai đoạn nuôi thịt không cần bón phân gây màu nước. Trong ao nuôi, ngoài sử dụng các loại cá tạp, cá còn có thể ăn các thức ăn chế biến có hàm lượng đạm cao, lượng cho ăn chiếm từ 5-6% trọng lượng cá
Cá lóc là loài cá sống phổ biến ở đồng ruộng, kênh, rạch, ao, hồ, đầm, tốc độ sinh trưởng nhanh, thích nghi với mọi môi trường nước (đục, tù, nóng) có thể chịu đựng được ở nhiệt độ 39 - 40 o C
Cá Lóc bông (Channa micropeltes Cuvier & Valencienes 1831) là loài cá dữ, nhưng thịt thơm ngon và rất được ưa chuộng. Kích cỡ cá lớn nhất đạt tới chiều dài 130cm, nặng 20kg
Cũng giống như ương nuôi các loài cá bột khác, trước khi thả cá phải tẩy dọn ao sạch, gây nuôi thức ăn tự nhiên sẵn trong ao. Mật độ nuôi 5 - 10 vạn/666m2, thông thường là 6 - 7 vạn. Trong 7 - 8 ngày đầu chưa cần cho ăn, sau đó vừa cho ăn vừa bón phân, mỗi vạn cá bột cho ăn 3 - 4kg tảo trần, nuôi như vậy 18 - 20 ngày khi toàn thân cá biến thành màu vàng bắt đầu xuất hiện vảy, sau đó biến thành màu đen, thân dài 3 - 6 cm, tỉ lệ sống 60 - 65%.
Nuôi cá lóc thịt trong mùng lưới (vèo) xuất hiện ngẫu nhiên tại vùng lũ những năm gần đây. Người dân nuôi cá lóc đã nghĩ đến dùng lưới thưa để tiện việc quản lý và cho cá ăn nhằm hạn chế thiệt hại.