Trang chủ / Cây lương thực / Trồng lúa

Kinh Nghiệm Bón Phân Cho Lúa Để Hạn Chế Bệnh Bạc Lá, Đốm Sọc Vi Khuẩn Trong Vụ Mùa

Kinh Nghiệm Bón Phân Cho Lúa Để Hạn Chế Bệnh Bạc Lá, Đốm Sọc Vi Khuẩn Trong Vụ Mùa
Ngày đăng: 26/04/2014

Đại đa số các giống lúa thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng đang gieo cấy phổ biến hiện nay đều có nguồn gốc từ Trung Quốc, không mang gen kháng vi khuẩn bạc lá Xa. Do vậy, khi phát triển các giống lúa này trong điều kiện vụ mùa ở các tỉnh phía bắc nước ta thì hầu hết các giống lúa trên đã bị nhiễm bạc lá vi khuẩn, gây tổn hại không nhỏ đến năng suất và chất lượng lúa mùa.

Như chúng ta đã biết, bệnh bạc lá lúa là do các chủng vi khuẩn Xanthomonas gây nên. Do vậy, nếu cây lúa đã bị nhiễm bệnh thì khó lòng chữa khỏi. Môi trường thuận lợi cho vi khuẩn tấn công vào cây lúa là 2 nguyên nhân chính: Nội tại cây lúa (thân lá mềm, mỏng dễ bị xây xát, rách tướp) và điều kiện ngoại cảnh (có mưa giông, bão lũ làm xây xát, rách lá).

Vì vậy, muốn hạn chế một cách tối đa vi khuẩn bạc lá lúa thì việc bón phân cân đối sao cho nội tại cây lúa không thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập là việc làm cần thiết cho người nông dân. Xin chia sẻ kinh nghiệm cách bón phân cho lúa của bà con nông dân Nam Sách - Hải Dương để hạn chế bệnh bạc lá vi khuẩn gây ra trong vụ mùa hàng năm như sau:

Ngay từ đầu vụ, để cây lúa không bị ngộ độc hữu cơ ở giai đoạn giữa vụ do gốc rạ phân hủy cần bón 15- 20kg vôi ta/sào. Làm đất phải đủ ngấu để cây lúa không bị ngẹt rễ giai đoạn còn non.

Về phân bón: Nên sử dụng chủ yếu các loại phân hỗn hợp (NPK) để bón, nhất là các loại phân có hàm lượng kali cao. Khi dùng các loại phân đơn (đạm urê, supe lân, kali) nếu bón với tỷ lệ không hợp lý, nhất là thời kì đẻ nhánh và sau đẻ nhánh rộ, thừa đạm lúa sẽ có nguy cơ nhiễm vi khuẩn bạc lá rất cao do lá lúa mỏng, dễ bị rách nát do va đập .

Với các loại phân này cần bón lót đủ, thúc đẻ sớm và tập trung, đón đòng đúng thời điểm. Cụ thể: Cần bón đúng liều lựơng và bón theo hướng dẫn của từng loại (căn cứ vào các quy trình bón của mỗi công ty). Dùng NPK để bón thúc đòng nên chọn hình thức bón đón đòng (bón lúa lúa đứng cái) chứ không nên bón nuôi đòng (lúa cứt gián). Vì các loại phân này do trong quá trình sản xuất được ép nén thành viên nên khả năng hòa tan, phân giải của phân chậm hơn phân đơn.

* Đối với những hộ có trình độ thâm canh cao thì có thể áp dụng cách bón như sau:

- Bón lót: Dùng NPK 5:10:3 (25-30 kg/sàoBB) bón vùi phân vào đất khoảng 5- 6cm (lúc cày bừa lần cuối).

- Thúc đẻ sớm: Bón khoảng 3- 3,5 kg đạm urê + 2kg kali/sào (vào lúc cây lúa có khoảng 3,5 – 4 lá thật - lúa bắt đầu đẻ đối với gieo thẳng và cấy mạ sân, hoặc lúa bén rễ hồi xanh đối với lúa cấy mạ dược).

Thúc đòng: Dùng 2-3 kg kali/sào (nếu lúa vàng lá gừng cần bón thêm 0,7- 1,0 kg đạm urê).

* Chú ý: Cần ưu tiên bón kali cao cho các giống hay bị nhiễm bạc lá. Các chân ruộng thuộc loại bùn hẩu cần giảm đạm, tăng kali cho cây cứng, lá dày đỡ bị bạc lá cuối vụ.

Ngoài việc bón phân cân đối như trên, các chân vàn và vàn cao cần điều tiết nước hợp lí cho lúa phát triển thuận lợi: Tháo cạn nước để mùn giun đùn lên khi cây lúa sắp bước vào quá trình đẻ nhánh. Duy trì mức nước 3-5cm đến khi lúa đẻ được từ 300- 350 dảnh/m2, rút cạn nước để nẻ nứt chân chim giúp cây lúa cứng, khỏe, bộ rễ ăn sâu, chống đổ tốt khi gặp giông bão vụ mùa. Khi lúa bắt đầu có cứt gián (lúa làm đòng) đưa nước lại ruộng và duy trì mức nước 4- 6cm đến lúc lúa trổ thoát và chắc hạt.

Khi lúa đỏ đuôi, tháo kiệt nước đến lúc gặt.

Thường xuyên thăm đồng và theo dõi tình hình phát sinh phát triển của các loài sâu bệnh để phòng trừ kịp thời. Phòng ngừa bệnh bạc lá vi khuẩn cần theo dõi các chương trình dự báo thời tiết diễn biến trong các ngày tới, tiến hành phun thuốc phòng bệnh bằng các loại thuốc như: Thysan, Antracol, Xanthomic, nước vôi trong trước hoặc sau các trận mưa giông, gió bão.

Đồng thời, ưu tiên phát triển nhiều trà lúa mùa sớm nhất là các giống lúa chất lượng có thời gian sinh trưởng ngắn ngày để né được bệnh bạc lá do vi khuẩn gây nên góp phần giải phóng đất được sớm để phát triển các cây rau màu vụ đông trên các chân ruộng trong cơ cấu luân canh 3- 4 vụ/năm.


Có thể bạn quan tâm

Quy Luật 2 Xanh - 2 Vàng Của Ruộng Lúa Năng Suất Cao Quy Luật 2 Xanh - 2 Vàng Của Ruộng Lúa Năng Suất Cao

- Bón phân đợt 2 sớm (18-20NSS), không đợi cấy dặm xong mới bón. Tác dụng của việc bón phân đợt 2 chủ yếu để nuôi những nhánh đã đẻ trước đó (chủ yếu là 2 ngạnh trê) đủ dinh dưỡng, khỏe, mập, mạnh để sẵn sàng trở thành những chồi cho bông về sau. Các nhánh đẻ muộn về sau, do bón phân đợt 2 sớm nên ruộng lúa sẽ hết phân lúc các nhánh phụ này có dưới 3 lá sẽ tự chết. Điều này tạo thành ruộng lúa ít có lá ủ (lá chưn), thông thoáng, các nhánh chính thì khỏe, mập, mạnh về sau sẽ cho bông dài, nhiều hạt (bông cái có trên 100 hạt và 2 ngạnh trê có từ 40-60 hạt).

29/10/2013
SÂu Cuốn Lá Lớn SÂu Cuốn Lá Lớn

- Trứng hình bán cầu, đỉnh bằng, giữa hơi lõm, mới đẻ có màu tro sau có màu nâu vàng, bề mặt có vân, khi sắp nở có màu đen tím. - Sâu non mới nở màu xanh lục, đầu lớn hơn thân. Khi sâu nở ra ăn vỏ trứng rồi bò ra đầu, mép lá nhả tơ dệt thành bao nấp ở đó. Sâu tuổi lớn hơn tiếp tục dệt các lá kế cận thành một bao lớn nằm ở trong gặm lá.

29/10/2013
Sâu Gai Hại Lúa Sâu Gai Hại Lúa

(Tên khoa học: Dicladispa armigera) Thuộc: Họ: Chyrysomelidae Bộ: Coleoptera Đặc điểm hình thái:

29/10/2013
Tưới Nước Tiết Kiệm Cho Lúa Tưới Nước Tiết Kiệm Cho Lúa

Trung tâm Khuyến nông tỉnh Bạc Liêu đang phổ biến và ứng dụng kỹ thuật tưới tiết kiệm nước của Thạc sỹ Trần Văn Na (Phó Chi cục BVTV) cho các địa phương trồng lúa Đông Xuân năm 2011). Đây là kỹ thuật tưới phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng của từng vùng đất, đặc biệt rất có hiệu quả đối với đất bị nhiễm phèn nhẹ của 2 huyện Phước Long và Hồng Dân - vùng trồng lúa Đông Xuân nhiều nhất tỉnh với hơn 25.000 ha.

29/10/2013
Một Số Máy Thu Hoạch Lúa Một Số Máy Thu Hoạch Lúa

Máy gặt đập liên hợp mã hiệu GĐLH –154, năng suất 0,30 ha/giờ; tỷ lệ hao hụt 1,75% của Cơ sở tư nhân Chín Nghĩa, địa chỉ Ấp 1, xã Long Thạnh, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An.

29/08/2013