Kiểm soát ngưỡng chịu đựng của ao tôm

Theo đánh giá, diện tích tôm nuôi bị thiệt hại chủ yếu do tôm bị bệnh và môi trường ao nuôi ô nhiễm.
Cả 2 nguyên nhân này đều liên quan đến ngưỡng chịu đựng của ao tôm.
Theo các nghiên cứu, càng về cuối vụ nuôi, chất thải (bao gồm phân tôm, thức ăn thừa, xác tảo chết) càng tích tụ nhiều ở đáy ao, tạo thành lớp bùn đen và sự phân hủy các chất hữu cơ sẽ tạo thành khí độc như H2S làm tôm chết.
Chất thải cũng là nguồn dinh dưỡng cho Tảo phát triển mạnh, khi Tảo tàn và phân hủy sẽ khiến cho nhu cầu Oxy trong ao nuôi tăng vọt.
Trong khi đó, tôm càng lớn thì tổng khối lượng tôm trong ao càng cao, ao nuôi trở nên chật hẹp.
Môi trường biến động xấu làm cho tôm suy yếu, dễ bị nhiễm bệnh, trong nhiều trường hợp người nuôi phải thu hoạch tôm khẩn cấp.
Việc làm này sẽ gây thiệt hại lớn cho người nuôi vì đã tốn nhiều tiền mua thuốc chữa trị trước đó, cộng với việc cỡ tôm nhỏ nên giá bán thấp.
Hiện ở Sóc Trăng, ngoài 25.900 ha nuôi tôm nước lợ đã thu hoạch, các diện tích còn lại cũng sắp cho thu hoạch.
Cũng có người nuôi cho rằng, tôm bước qua giai đoạn 2 – 3 tháng tuổi là có thể yên tâm vì số bị thiệt hại rất ít, tuy nhiên ở mỗi giai đoạn đều có những nguy cơ riêng, bà con cần chú ý để bảo đảm lợi nhuận cho mình.
Thông thường bà con chỉ theo kinh nghiệm nhìn màu nước, màu Tảo của ao tôm, hoặc dựa theo các chỉ số môi trường đo được tại thời điểm đó, như độ pH, độ kiềm, ông Lê Văn Mung ở xã Thạnh Thới Thuận, huyện Trần Đề chia sẻ kinh ngiệm:
“Trong quá trình nuôi phải thường xuyên theo dõi độ pH, độ Kiềm trong giai đoạn thời tiết chuyển mùa, theo dõi thức ăn thừa trong ao, thường xuyên theo dõi sự đổi màu của nước trong ao nuôi, để kịp thời có cách xử lý”.
Để có môi trường tốt cho tôm phát triển, phụ thuộc nhiều vào hệ thống hạ tầng ao nuôi và lượng giống thả vào ao.
Theo đó, ao nuôi tôm công nghiệp cần có độ sâu từ 2 – 2,5m, đảm bảo giữ được nước cao nhất từ 1,6 – 1,8m.
Mật độ thả hợp lý đối với tôm sú nuôi thâm canh 15 – 20 con/m2, bán thâm canh 8 – 14 con/m2; tôm thẻ chân trắng 30 – 80 con/m2.
Ngoài ra trong quá trình nuôi cần đảm bảo máy quạt đầy đủ, người nuôi nắm vững kỹ thuật và có kinh nghiệm trong ổn định các chỉ số môi trường ao nuôi khi có biến động do thời tiết.
Thạc sĩ Trịnh Mỹ Yến – Chi Cục Thú y tỉnh Sóc Trăng khuyến cáo: “Bà con lưu ý sau những cơn mưa kéo dài nên kiểm tra lại độ pH trong ao.
Nếu độ pH giảm thấp thì dùng vôi nông nghiệp hòa tan trong nước với liều lượng từ 10 đến 20kg cho 1.000 mét khối nước; duy trì mực nước trong ao từ 1,3m đến 1,8m để tránh sự biến động của yếu tố môi trường.
Đối với hiện tượng Tảo tàn, bà con có thể bón phân vi sinh, để khử khí độc trong ao thì bà con nên sử dụng men vi sinh định kỳ”.
Chất lượng con giống thả nuôi cũng góp phần quyết định cho việc kiểm soát ngưỡng chịu đựng của ao tôm.
Ngoài ra, trước khi tôm đạt ngưỡng, người nuôi cần chủ động thu tỉa để tạo môi trường thông thoáng giúp tôm phát triển tiếp hoặc tăng cường quạt khí, kiểm soát mật độ tảo thích hợp cho ao nuôi.
Có thể bạn quan tâm

Không chỉ hồi sinh thung lũng Cọ Phiêng Dìa hoang hóa, anh Lò Văn Nghĩ (bản Sẳng, xã Chiềng Xôm, thành phố Sơn La) còn trực tiếp hướng dẫn các hộ nghèo cách làm ăn bằng chính mô hình trang trại của mình.

Dù chỉ là giống gà ta bình thường chứ không phải loại quý hiếm như gà Tò "tiến vua" ở Quỳ Phụ (Thái Bình) nhưng cặp gà gồm 1 trống, 1 mái của bà Nguyễn Thị Nga (52 tuổi, ở thị trấn Trà Xuân, huyện Trà Bồng, Quảng Ngãi) vẫn có lông phủ từ khuỷu đến tận bàn chân.

Nhiều cơ sở thu mua sầu riêng tại Đăk Lăk vừa bị phát hiện dùng hóa chất tẩm cho sầu riêng chín nhanh, đều. Chưa biết tác hại thực sự của việc làm này đến đâu, song rõ ràng đã ít nhiều ảnh hưởng đến thương hiệu sầu riêng Đăk Lăk.

15 năm về trước, kinh tế gia đình anh Nguyễn Thành Nga (thôn Gò Sạn, xã Bắc Phong, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận) rất khó khăn, tình cảnh “ăn sáng lo trưa”. Gia đình anh chỉ khá lên kể từ khi anh vay được nguồn vốn của Ngân hàng NNPTNT huyện Thuận Bắc để làm ăn.

Ý kiến trao đổi của ông Nguyễn Hữu Trí - Chủ tịch Hội Nông dân (ND) quận Bắc Từ Liêm (Hà Nội) sẽ góp phần làm rõ hơn kinh nghiệm, giải pháp xây dựng và phát triển Hội ND ở các vùng đô thị hóa hiện nay.