Hội Chứng Taura - TSV (Taura Syndrrome Virus)

Virus gây hội chứng Taura được phát hiện vào năm 1992 ở Ecuador và nhanh chóng truyền sang các nước Châu Mỹ, châu Á gây nhiều thiệt hại cho người nuôi tôm.
Virua Taura là loại virus Picornavirus, thuộc họ Picornaviridae, có dạng hình cầu 20 mặt, kích thước khỏang 31- 32 nm. Hệ thống gen là một mạch RNA. Virus ký sinh tế bào biểu mô và dưới biểu mô đuôi.
Hội chứng Taura thường gặp ở tôm thẻ chân trắng (L. vannamei = Penaeus vannamei) ở giai đoạn nuôi từ 14-45 ngày tuổi, cỡ 0,05-7,0g. Bệnh cũng có thể nhiễm trên tôm thương phẩm.
Dịch bệnh TSV rất nguy hiểm, thời gian ủ bệnh cao, lan truyền rất nhanh, có thể gây chết từ 40- 95% ở tôm nuôi từ post, tôm giống, tôm giống lớn.
Bệnh TSV cũng có thể nhiễm ở tôm sú (P. monodon), tôm he Nhật Bản (P. japonicus) và một số loại tôm khác.
Triệu chứng của bệnh phổ biến là cơ thể và các bộ phận khác có màu đỏ hoặc đen hồng, biếng ăn, hoặc rúc vào đìa nuôi.
Triệu chứng: tôm bị nhiễm TSV có triệu chứng tương tự như bị bệnh vi khuẩn.
- Tôm yếu, èo uột, vỏ mềm, ruột không có thức ăn, bơi lờ đờ trên mặt nước, tấp mé bờ, chậm lớn. Gan tụy có màu vàng hơn bình thường; mang, đuôi có thể bị sưng. Thân tôm (đuôi, chân bơi) có màu đỏ nhạt, hồng xám. Khi dùng kính hiển vi quan sát đuôi và chân bơi của tôm sẽ thấy có dấu hiệu hoại tử.
- Ở giai đoạn cấp tính, tôm thường chết trong quá trình lột xác. Theo Việt Linh, trong độ tuổi 30-45 ngày, tôm thẻ chân trắng nhiễm TSV cấp tính có thể chết hàng loạt sau 2-3 ngày bỏ ăn. Đầu tiên thấy xuất hiện tôm chết dưới đáy, sau đó tôm nổi lên mặt nước và có nhiều tôm chết ở rìa ao.
- Nếu tôm sống lột vỏ được, chúng có thể hồi phục và sinh trưởng bình thường, dù vẫn nhiễm liên tục virus.
- Sau giai đoạn cấp tính, biểu bì bị hoại tử sẽ gây nên các đốm đen trên thân tôm, vỏ kitin ở đuôi và chân bơi bị ăn mòn, do vi khuẩn Vibrio spp.
- Tôm nhiễm TSV giai đoạn mạn tính: không có dấu hiệu bên ngoài, mô bệnh chỉ có trong tổ chức lympho của tế bào.
- Virus Taura có thể nhiễm trên tôm sú (P. monodon) gây ra bệnh đỏ đuôi: tôm có màu đỏ ở toàn bộ vùng đuôi quạt và các đốt thân kế tiếp ngược lên phía đầu; Chân bò, chân bơi cũng có màu đỏ. (Theo TS Văn Thị Hạnh)
Chẩn đoán bệnh
- Phương pháp truyền thống: xét dấu hiệu lâm sàng, tác nhân thô, mô học và xét nghiệm sinh học.
- Phương pháp kháng thể: test ELISA, test PCR
Phòng và trị bệnh TSV
Áp dụng phương pháp phòng bệnh tổng hợp. Tương tự như phòng bệnh MBV, bệnh đốm trắng và bệnh đầu vàng.
Phòng bệnh hữu hiệu nhất là: chọn con giống không có mầm bệnh sau khi qua kiểm tra PCR hoặc theo phương pháp SPF (specific Pathogen Free).
Thiết kế ao nuôi riêng biệt, làm lưới ngăn giáp xác mang mầm bệnh vào ao, không lấy nước trực tiếp từ nguồn nước chưa xử lý, định kì cho ăn bổ sung các loại thuốc tăng sức đề kháng: vitamin C, khoáng, probiotic.
Khi ao tôm nhiễm bệnh, phải sát khuẩn kĩ, giảm tối thiểu sự lây lan qua các ao khác.
Có thể bạn quan tâm
Nuôi trồng thủy sản thường gặp rất nhiều trở ngại, khó khăn từ sự thay đổi môi trường, thời tiết, khí hậu. Nuôi thủy sản trong mùa lạnh, những khó khăn trở ngại xảy ra thường xuyên và ảnh hưởng trầm trọng nhất.
Tôm sú là đối tượng nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao của ngành nông nghiệp nói chung. Trong nhiều năm nay, nghề nuôi tôm sú, phát triển mạnh về diện tích, mô hình nuôi, năng suất, sản lượng, hiệu quả kinh tế, đến các hoạt động dịch vụ hỗ trợ sản xuất liên quan.

Mô hình kết hợp nuôi trồng rong câu trong ao xử lý nước thải từ ao hồ nuôi tôm sú công nghiệp có hiệu quả khá tốt trong việc giảm tải nguồn vật lơ lửng, muối dinh dưỡng vô cơ và dinh dưỡng hữu cơ, đồng thời làm giảm đáng kể sự phát triển của tảo trong nước.

Giống như những loài thủy sản khác, ba ba có tính ăn mồi thiên về động vật. Thức ăn dư thừa, phân thải, sự hoạt động liên tục của ba ba trong môi trường nuôi, góp phần đáng kể làm môi trường nuôi ba ba rất mau ô nhiễm. Khi môi trường ô nhiễm, là điều kiện thuận lợi để dịch bệnh phát sinh, gây hại cho ba ba nuôi.

Khoa thủy sản Trường đại học Cần Thơ vừa thử nghiệm thành công trong việc pha nước biển nhân tạo để ươm tôm sú giống. Bằng kỹ thuật này, tôm sú giốngcó tỷ lệ nuôi sống cao hơn nuôi trong nước biển tự nhiên.