Hiệu Quả Từ Mô Hình Chăn Nuôi Heo Sinh Sản

So với các tỉnh ĐBSCL, Bến Tre có tổng đàn heo trên 500 ngàn con, với phẩm cấp giống khá tốt. Tuy nhiên, đa số sản xuất dưới hình thức nông hộ, quy mô còn nhỏ lẻ và mức độ đầu tư về cơ sở vật chất chưa cao, chưa có qui hoạch khu chăn nuôi riêng. Vì vậy, việc bảo đảm vệ sinh môi trường trong chăn nuôi nhằm hạn chế dịch bệnh cho vật nuôi, bảo đảm vệ sinh môi trường và sức khỏe cộng đồng luôn là vấn đề bức thiết. Trong đó, giải pháp an toàn sinh học luôn được chú trọng.
Vừa qua, Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư (Trung tâm) tỉnh đã thực hiện chương trình “Chăn nuôi heo nái sinh sản đảm bảo vệ sinh môi trường” tại huyện Mỏ Cày Nam, với sự hỗ trợ kinh phí của Trung tâm quốc gia.
Tuy nhiên, chị Huỳnh Thị Túy, ở ấp Thới Hòa, xã Thành Thới A (Mỏ Cày Nam) cùng không ít hộ nuôi khác không khỏi băn khoăn, lo lắng khi mô hình triển khai. Vì ngay thời điểm đó, ở nhiều địa phương khác, đang xảy ra dịch bệnh tai xanh trên heo. Mọi người sợ dịch bệnh sẽ ảnh hưởng đến địa phương mình nên khi được đề nghị tham gia chương trình họ đều rất đắn đo. Chị Huỳnh Thị Mười ở ấp Thới Hòa, chị Đoàn Thị Thuyết ở ấp Tân Phong còn có thêm nỗi lo về việc nhập heo giống ở trại khác về trại của mình sẽ làm lây nhiễm mầm bệnh, gây hậu quả lớn. Ngay cả anh Ngô Văn Tâm, ở ấp Tân Phong, mặc dù là thú y viên của địa phương nhưng khi tham gia chương trình cũng không khỏi lo lắng. Theo anh Tâm, tình hình dịch bệnh ở các tỉnh, huyện lân cận đang diễn biến mạnh. Đây là điều mà các anh chị làm công tác khuyến nông rất trăn trở, vì nó sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến việc tiến độ triển khai và kết quả của chương trình.
Hiểu được tâm trạng của người chăn nuôi cùng với quyết tâm của mình, các cán bộ của Trung tâm tỉnh, huyện đã phối hợp với khuyến nông viên và chính quyền địa phương triển khai cho các hộ tham gia một cách cặn kẽ về những yêu cầu của mô hình, các tiêu chuẩn về chọn lựa con giống, qui trình chăn nuôi, vệ sinh phòng bệnh trong trang trại. Từ đó, các hộ đã yên tâm tham gia chương trình.
Được thực hiện từ tháng 6-2010 đến tháng 8-2011, chương trình đã hỗ trợ 68 heo cái giống hậu bị, với định mức hỗ trợ 1,623 triệu đồng/con, chi phí còn lại do 15 hộ tham gia đóng góp thêm. Ngoài ra, chương trình còn tổ chức các lớp tập huấn, tham quan các mô hình đạt hiệu quả, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi, tổ chức hội thảo trao đổi kinh nghiệm… Do chọn lựa heo nái hậu bị từ trang trại chăn nuôi heo nái sinh sản có chất lượng nên số heo nái của các hộ chăn nuôi sinh trưởng và phát triển tốt, không xảy ra dịch bệnh; đồng thời có tỉ lệ phối giống và đậu thai cao. Heo nái đẻ bình quân đạt từ 10 đến 12 con/lứa, trọng lượng sơ sinh bình quân đạt 1,3 kg/con và số heo con sau cai sữa trên 10 con/lứa/nái đạt chỉ tiêu, yêu cầu mô hình. Kết quả này cho thấy chương trình chăn nuôi heo sinh sản hướng nạc đã mang lại hiệu quả cho người chăn nuôi.
Hiện nay, việc chăn nuôi đang gặp nhiều thách thức như: dịch bệnh thường xuyên xảy ra, giá cả thiếu ổn định, nông dân chưa có giải pháp tốt trong việc kiểm soát dịch bệnh, nâng cao năng suất, hạ giá thành. Chính vì vậy, việc tìm kiếm giải pháp mới như chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học là cần thiết. Qua đó, phổ biến, nhân rộng những mô hình có tác động cải thiện và điều chỉnh theo hướng an toàn, bền vững, đạt hiệu quả. Mặt khác, vấn đề thú y và vệ sinh dịch tễ hiện nay rất khó kiểm soát, dễ xảy ra những loại dịch bệnh gây thiệt hại về kinh tế, tăng chi phí thuốc thú y điều trị, nhất là tăng hàm lượng kháng sinh tồn đọng trong cơ thể gia súc. Ngoài ra, hệ thống giết mổ, chế biến và tiêu thụ chưa tốt, còn ở dạng cá thể, chưa mang tính tập trung… Những yếu tố trên làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm thịt và khả năng phát triển chăn nuôi một cách ổn định và bền vững.
Để định hướng cho người dân chăn nuôi heo phát triển theo hướng công nghiệp, chất lượng, an toàn dịch bệnh và bền vững, cần phải nhân rộng mô hình như trên. Khi mô hình chăn nuôi được nhân rộng, chắc chắn sẽ góp phần giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường, hạn chế dịch bệnh, mang tính ổn định cho người sản xuất và có sản phẩm an toàn cho người tiêu dùng.
Có thể bạn quan tâm

Ở thời điểm đầu tháng Tư, giá hành chỉ trên dưới 2.000 đồng mỗi kg, nhưng gần tuần nay giá đang được đoàn viên thanh niên mua ở mức 7.000 đến 8.000 đồng; loại tốt, củ to, đều, một số thương lái đã trả giá tới 9.000 đến 10.000 đồng một kg.

Theo Vụ Thị trường châu Phi, Tây Á, Nam Á thuộc Bộ Công Thương, nhu cầu nhập khẩu rau quả, cây cảnh của các quốc gia vùng Vịnh (GCC) ngày càng tăng cao sẽ là cơ hội lớn cho một số loại trái cây Việt Nam như vải thiều, nhãn lồng, thanh long.

Dù đang dịp nghỉ lễ nhưng tại thị xã Vĩnh Châu và TP Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng, không khí “giải cứu” 50.000 tấn hành tím tồn đọng đang rất khẩn trương nhằm giúp nông dân thoát cảnh trắng tay, nợ nần. Tính đến ngày 30-4, sản lượng hành tím được “giải cứu” khoảng 1.000 tấn.

Bộ Nông nghiệp Úc mới đây đã có văn bản chính thức cho phép nhập khẩu quả vải tươi từ Việt Nam.

Cá rô phi được Bộ Nông nghiệp và PTNT xác định là một trong 4 đối tượng thủy sản nuôi chủ lực trên cả nước. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, kinh nghiệm nuôi cùng cơ sở hạ tầng phục vụ chế biến tương đối tốt nên Việt Nam có nhiều thuận lợi để phát triển mạnh nghề nuôi và chế biến xuất khẩu cá rô phi.