Cách Phòng Một Số Bệnh Do Vi Khuẩn Ở Tôm Sú

Vi khuẩn là tác nhân thường xuyên có mặt trong ao nuôi, cũng có thể gây nhiều bệnh nguy hiểm khác nhau cho các giai đoạn phát triển của tôm. Một số bệnh do vi khuẩn gây ra ở tôm nuôi như: bệnh đứt râu, bệnh cụt đuôi, hoại chi; bệnh đốm đen, đốm nâu, bệnh phát sáng, bệnh vi khuẩn dạng sợi,...
Bệnh vi khuẩn phát sáng:
Các giai đoạn bị nhiễm: trứng, ấu trùng, hậu ấu trùng, tôm trưởng thành.
Triệu chứng: ấu trùng yếu đi và có màu trắng đục. Tôm con và tôm trưởng thành bị nhiễm bệnh phát ra ánh sáng màu xanh lục liên tục khi ta quan sát trong chỗ tối. Khi nhìn dưới kính hiển vi, các mô bên trong của ấu trùng này chứa đầy các vi khuẩn bơi rất nhanh. Tình trạng tôm bị nhiễm bệnh sẽ dẫn đến tử vong cao lên gần 100% số bị nhiễm.
Biện pháp phòng ngừa: tránh sự xâm nhập của vi khuẩn phát quang vào trong hệ thống ấp trứng (sử dụng nước nhiễm xạ cực tím, xử lý bằng Clo,...).
Chấp hành nghiêm ngặt các quy trình vệ sinh trước và trong quá trình nuôi.
Lọc sạch cặn và tạp chất ở đấy bể nuôi, hồ nuôi vì đó là môi trường tốt cho vi khuẩn sinh trưởng. Tẩy trùng các ấu trùng bị nhiễm trước khi loại bỏ chúng.
Cách chữa trị: Mỗi ngày phải thay nước từ 80 – 90%.
Bệnh thoái hóa vỏ, bệnh đốm nâu, bệnh hoại chi
Các giai đoạn bị nhiễm: ấu trùng, hậu ấu trùng, tôm con, tôm trưởng thành
Triệu chứng và dấu hiệu: xuất hiện vết thoái hóa từ hơi nâu ngả sang đen trên vỏ, phần bụng, phần phụ đầu, đuôi, mang và các chi.
Vết phỏng chứa dịch gelatin màu xanh tím có thể phát triển trên vỏ và phần bụng, phần cuối đuôi, phần phụ đầu. Vết phỏng này có thể lan sang phần bên dưới 2 bên vỏ, tạo thành một khối u.
Ở giai đoạn ấu trùng, tôm con, tôm trưởng thành, các chi bị nhiễm bệnh có hình dạng như đầu mẩu tàn thuốc.
Phương pháp phòng ngừa: sử dụng nước có chất lượng tốt.
Giảm hàm lượng các chất hữu cơ trong nước đến mức thấp nhất bằng cách loại bỏ các chất cặn bã, tôm chết, vỏ tôm đã thay vì đó là nơi ẩn náu của vi khuẩn.
Cho ăn đầy đủ.
Giảm tối đa việc vớt và thả tôm, tránh nuôi với mật độ quá lớn (trên 30 con P15/m2).
Tránh gây thương tích trên vỏ tôm
Cách chữa trị: kích thích sự thay vỏ của tôm. Thay nước sạch, dùng vôi sống CaCO3 để lắng tụ chất vẩn hữu cơ và tăng cường sục khí.
Tăng sức đề kháng cho tôm bằng cách bổ sung Vitamin C hàng ngày vào thức ăn cho tôm.
Có thể dùng một số kháng sinh liều lượng 40 – 50 mg/l thức ăn, liên tục trong 4 – 5 ngày. Dùng BKC phun trực tiếp xuống ao với liều lượng 0,4 – 0,5 ml/m3 kết hợp mở máy quạt nước hoặc sục khí.
Riêng bệnh phân trắng thường phát sinh khi nuôi tôm trên 60 ngày tuổi, nguyên nhân do nhiễm vi khuẩn Vibrio.
Để phòng bệnh cho tôm cần phải giữ môi trường nước ổn định, giảm hàm lượng hữu cơ trong ao và đáy ao bằng các loại men vi sinh phân hủy chất thải, giảm sinh khối tảo bằng các hóa chất diệt tảo.
Khi tôm bị bệnh cần thay nhiều nước, dùng Riato liều lượng 5 – 10 g/kg thức ăn cho ăn liên tục từ 3 – 5 ngày.
Có thể bạn quan tâm

Trong nuôi tôm, ít người chú ý đến kỹ thuật thả tôm vì đơn giản họ nghĩ rằng thả tôm như thế nào cũng không ảnh hưởng đến sự sống của tôm. Thực tế không phải như vậy, kỹ thuật thả tôm rất quan trọng đến sự thích nghi và sức khỏe của tôm sau khi được chuyển từ môi trường này đến môi trường khác.

Khi tôm mới nhiễm virus MBV, dấu hiệu bệnh không biểu hiện rõ ràng. Khi tôm nhiễm bệnh nặng và phát bệnh thường có biểu hiện một số dấu hiệu sau: Tôm có màu tối hoặc xanh tái, xanh xẫm. Tôm kém ăn, hoạt động yếu và sinh trưởng chậm (chậm lớn)

Bệnh phát sáng xuất hiện quanh năm trên các loài tôm sú, thẻ, càng xanh... Bệnh có thể xảy ra trong tất cả các giai đoạn ương nuôi từ trứng đến tôm trưởng thành. Bệnh phát triển mạnh trong môi trường nước giàu dinh dưỡng, nhiều chất hữu cơ ở độ mặn cao, thiếu oxy hòa tan, lây lan nhanh trong mùa nóng

Bệnh đen mang là bệnh thường gặp ở tôm nuôi trong các ao nuôi có môi trường không tốt, mật độ nuôi dày. Mang và vùng mô nối mang với thân tôm có màu nâu hoặc đen. Khi nhiễm nặng các phụ bộ, chân và đuôi cũng bị đen. Tôm nổi đầu do thiếu oxy, bơi lờ đờ trên mặt nước, dạt vào bờ

Trong nuôi tôm, màu nước nuôi rất quan trọng. Có màu nước lợi cho tôm và cũng có màu nước lại gây hại cho tôm. Vì vậy người nuôi tôm cần nắm vững quy luật thay đổi màu nước. Bản chất của màu nước được định lượng bằng hàm lượng các chất hữu cơ và vô cơ chứa trong nước.