Biện pháp hạn chế tác hại của phèn, mặn ở ruộng lúa
Đất bị mặn thường làm cho tình trạng ngộ độc phèn trở nên trầm trọng hơn. Cần đo độ chua và mặn nước ruộng để chọn loại phân bón cho phù hợp.
1. Ngăn chặn độc chất phèn, mặn
Độc chất phèn có ở tầng đất sâu. Để không cho độc chất này được sinh ra và kéo lên mặt đất gây hại lúa cần phải: (a) Dùng nước để ém phèn: Bằng cách không để mực thủy cấp xuống thấp hơn 50 cm (tính từ mặt đất) trong thời gian phơi ải và không thấp hơn 15 cm khi có lúa trên ruộng; (b) Làm đất sớm: Sau thu hoạch lúa Đông Xuân phải làm đất ngay để tạo lớp che phủ mặt đất và cắt mao dẫn phèn trồi lên mặt đất.
Độc chất mặn xâm nhập sâu vào nội đồng vào mùa khô. Cho nên để ngăn chặn mặn vào ruộng lúa cần phải: (a) Củng cố đê bao ngăn mặn: Không để nước tự do vào ruộngở những vùng tưới tiêu tự chảy; (b) Theo dõi dự báo mặn: Khi dự báo có mặn phải trữ nước ngọt trong ruộng, không để ruộng bị khô hạn; (c) Đo độ mặn: Dùng dụng cụ đo độ mặn của nước trong sông rạch trước khi bơm vô ruộng. Nếu độ mặn dưới 2,5‰ vẫn có thể bơm nước nếu đất ruộng còn ẩm, nhưng tốt nhất phải dưới 0,5‰, vì vậy khi bơm nước mặn tưới lúa cần phải bơm nhiều nước và xả bỏ nước cũ thay nước mới thường xuyên để tránh bốc hơi làm tăng độ mặn của nước trong ruộng.
2. Tìm nguồn nước ngọt
Độ mặn trong sông rạch không cố định mà thay đổi theo con nước kém hay ròng (nước dâng cao hay xuống thấp) trong tháng và theo con nước lớn, ròng trong ngày. Độ mặn giảm thấp vào những thời điểm con nước kém và lúc nước ròng, do lúc này mực nước biển xuống thấp nên nước ngọt đổ ra biển mạnh hơn, do đó phải theo dõi liên tục để tìm thời điểm có nước ngọt.
Khi bơm nước ngọt vào ruộng phải kiểm tra độ mặn thường xuyên để ngưng kịp thời khi có mặn.
3. Rửa độc chất phèn và mặn
Để rửa độc chất phèn, mặn được nhanh và hiệu quả cần phải: (a) Làm nhiều rãnh thoát nước trong ruộng: Rãnh có chiều ngang 20 cm, sâu 20 cm và rãnh cách nhau khoảng 6 m. Các rãnh này phải được nối với mương thoát nước; (b) Bón phân có canxi: Chất canxi giúp đuổi mặn ra khỏi đất nhanh chóng. Bón phân chuyên dùng Đầu Trâu Mặn Phèn với liều lượng 100-160 kg/ha để giải độc mặn, phèn và thúc cây ra rễ, hoặc bón 500-1.000 kg/ha đá vôi nung; (c) Đo độ chua và mặn của nước trong ruộng: Đào một lỗ giữa ruộng có kích thước ngang một gang tay và sâu một gang tay, múc bỏ hết nước trong lổ sau khi đào. Khi lỗ đầy nước trở lại tiến hành đo chua và mặn. Khi pH trên 5,5 và độ mặn dưới 1‰ thì mới đạt yêu cầu.
4. Bón phân cho lúa khi bị phèn, mặn
Đất bị mặn thường làm cho tình trạng ngộ độc phèn trở nên trầm trọng hơn. Cần đo độ chua và mặn nước ruộng để chọn loại phân bón cho phù hợp. Nên bón các loại phân sau đây để tăng sức chống chịu cho lúa:
Bón phân N. Nên bón các dạng phân ure chậm phân giải như Đạm hạt vàng (Đầu Trâu 46A+) chống thất thoát N (theo hướng dẫn kỹ thuật của Cục Trồng trọt, Trung tâm KNQG, Viện Lúa ĐBSCL) để cây không bị thiếu dinh dưỡng khi bị mặn, phèn. Nếu trị số pH nước ruộng trên 5,5 có thể bón phân N dạng SA.
Bón phân P. Nên bón phân Đầu Trâu DAP-Avail để hạn chế sự cố định P do Fe và Al ở đất chua gây ra hiện tượng thiếu P. Nếu trị số pH trong nước ruộng trên 5,5 có thể bón phân P dạng Super.
Bón phân K. Nên bón phân KCl để hạn chế sự đối kháng của muối mặn Na đối với K, giúp cây trồng hấp thụ đủ K trong điều kiện phèn, mặn. Nếu trị số pH của nước ruộng trên 5,5 có thể bón K dạng K2SO4 (theo hướng dẫn kỹ thuật của Cục Trồng Trọt, Trung tâm KNQG, Viện Lúa ĐBSCL).
Quy trình bón phân trong mô hình canh tác lúa thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu vùng ĐBSCL:
Loại phân bón | Bón lót | Thúc đợt 1 | Thúc đợt 2 | Đón đòng |
Đầu Trâu Mặn Phèn | 100-160 | |||
Đầu Trâu TEA1 | 100-150 | 130-170 | ||
Đầu Trâu TEA2 | 100-160 | |||
Công thức dinh dưỡng | 69-100 N : 50-73 P2O5 : 37-56 K2O |
Đvt: kg/ha
Phun phân KNO3 qua lá: Bên cạnh bón phân khoáng hợp lý, khi rễ lúa bị tổn thương do phèn, mặn hay ruộng thiếu nước thì không thể bón phân qua rễ được phải phun phân KNO3 qua lá (theo hướng dẫn kỹ thuật của Cục Trồng Trọt, TRung tâm KNQG, Viện Lúa ĐBSCL) với nồng độ 10 g/l. Phải phun ướt đẫm cả lá.
Có thể bạn quan tâm
Theo dự báo của Cục Bảo vệ Thực vật, vụ xuân năm nay dịch rầy nâu hại lúa có thể diễn ra trên diện rộng vào trung tuần tháng 5 đến hạ tuần tháng 6 trên lúa xuân muộn^ thuộc các tỉnh đồng bằng Trung du miền núi phía Bắc giai đoạn trổ bông đến chín đỏ đuôi. Để đảm bảo năng suất, chất lượng lúa cuối vụ bà con nông dân cần chủ động phòng trừ tốt rầy nâu.
Vì vậy, để đạt năng suất hạt 6-7 tấn/ ha/ vụ cần bón cho lúa số lượng phân bón như sau: 8-10 tấn phân chuồng, 100 -120 kg N/ ha, 100 -120 kg P2O5/ ha và 30 -60 kg K2O/ ha. Ở đất phù sa sông Hồng, sông Cửu Long, kali chưa phải là yếu tố hạn chế năng suất. Đất phèn nặng, cần tăng phân lân lên 90 - 150 kg P2O5/ ha (Mai Văn Quyền, 1995).
Lúa xuân ở miền Bắc đang sinh trưởng giai đoạn đẻ nhánh - đứng cái, điều kiện thời tiết vụ xuân ấm hơn so các năm trước kết hợp nguồn thức ăn trên đồng ruộng phong phú thuận lợi cho chuột sinh sản tích lũy số lượng lớn và gây hại mạnh.
Bệnh vàng lùn do vi rút Rice Grassy Stunt Virus (RGSV) gây ra. Virut này xâm nhập vào cây lúa và gây bệnh thông qua môi giới là Rầy nâu (Nilaparvata lugens). Bệnh được phát hiện đầu tiên ở vùng Khu 4 cũ và sau này lây lan ra khắp các tỉnh trong cả nước, nhưng gây hại chủ yếu tại các tỉnh miền Trung và Đồng bằng sông Cửu long.
ĐBSCL đang bước vào thu hoạch lúa đông xuân và đang chuẩn bị xuống giống vụ xuân hè. Ở những vùng có đê bao, chủ động bơm tưới nước thường làm 3 vụ/năm, vì thế lịch thời vụ rất khẩn trương. Thường là sau khi thu hoạch lúa đông xuân, đa số nông dân đốt đồng và dùng ngay lúa mới thu hoạch (vì vụ này ít người có hạt giống cũ) để làm giống sạ cho vụ mới, trong đó có nhiều người sạ chui (đốt đồng, không xới đất) nên từ khi thu hoạch đến khi xuống giống vụ mới chưa tới 10 ngày.