Bệnh thường gặp trên cá điêu hồng và cách phòng trị
Bệnh xảy ra gây thiệt hại nghiêm trọng cho người nuôi (50-70%). Thông tin sau sẽ giúp người nuôi hiểu rõ hơn về hai bệnh này từ đó có cách phòng trị bệnh hiệu quả.
Hình : Cá điêu hồng bị bệnh nổ mắt
Người nuôi cá điêu hồng không ai không gặp qua bệnh nổ mắt và bệnh trắng mang, thối mang trên cá điêu hồng.
Bệnh thường xảy ra vào mùa có nhiệt độ nước tăng cao, khi hàm lượng oxy hoà tan trong nước thấp, cá nuôi với mật thả cao, trọng lượng cá từ 100g trở lên.
Bệnh xảy ra gây thiệt hại nghiêm trọng cho người nuôi (50-70%).
Thông tin sau sẽ giúp người nuôi hiểu rõ hơn về hai bệnh này từ đó có cách phòng trị
Tác nhân gây bệnh
Do vi khuẩn Steptococcus gây ra.
Vi khuẩn này phát triển mạnh ở môi trường có nhiệt độ nước 20 – 30oC.
Dấu hiệu bệnh lý của cá bệnh
Cá có dấu hiệu hôn mê, mất phương hướng bơi lội.
Vùng mắt bị thương tổn như viêm mắt, lồi mắt, chảy máu mắt Xuất hiện các vết lở loét xuất huyết không lành ở quanh mắt, các gốc vây hoặc những vùng da hơi đỏ xung quanh hậu môn, sinh dục của cá Có dịch chất lỏng trong bụng cá chảy ra hậu môn (dấu hiệu của dịch bệnh ở thời kỳ cấp tính)
Cá bỏ ăn, kiểm tra không thấy thức ăn trong dạ dày hoặc ruột của cá bị bệnh, quan sát thấy túi mật to Gan, thận, lá lách, tim, ống ruột bị xuất huyết.
Lá lách và thận bị trương lên và sưng nhẹ Khi cá bị nhiễm bệnh nặng kiểm tra có sự dính nhau của các cơ quan nội tạng với màng trong khoang bụng của cá, quan sát thấy có các tơ huyết trong màng ở khoang bụng
Phương pháp phòng và trị bệnh
Thực hiện tốt công việc chuẩn bị ao, lồng bè nuôi, đặc biệt là khâu xử lý đáy ao và xử lý nước.
Dùng Virkon® A để xử lý nước với liều 0,7 kg/1.000 m3 nước ao hoặc cho vào các túi vải, treo xung quanh lồng bè nuôi để tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh Trước khi thả cá nuôi nên tắm qua nước muối 2 – 3% trong thời gian 5 – 15 phút.
Nên thả nuôi với mật độ vừa phải Trong quá trình nuôi cần theo dõi thường xuyên các yếu tố môi trường nước, nếu được duy trì hàm lượng oxy hoà tan ở mức cao bằng máy quạt nước.
Trộn cho ăn liên tục 5 g Aqua C® Fish + 3 g Grow Fish trong 1 kg thức ăn, định kỳ từ 7 – 10 ngày/tháng để tăng cường sức đề kháng cho cá khi nhiệt độ thay đổi Khi dịch bệnh xảy ra nên cắt giảm một phần hoặc toàn bộ lượng thức ăn cho cá.
Giảm mật độ nuôi sẽ giảm bớt căng thẳng và mức độ lây lan bệnh đến cá.
Lập tức vớt bỏ số cá chết ra khỏi ao, lồng bè nuôi Điều trị ngay bằng kháng sinh Osamet® Fish (hoặc Fortoca®) liều 5 – 10 gram + Aqua C® Fish liều 5 gram trong 1 kg thức ăn (hoặc cho 2 – 3 tấn cá nuôi), cho ăn liên tục trong 7 – 10 ngày Điều trị bệnh giai đọan sớm hiệu quả điều trị sẽ rất cao.
BỆNH TRẮNG MANG, THỐI MANG
Hình : Cá điêu hồng bị bệnh thối mang
Tác nhân gây bệnh Do vi khuẩn Myxococcus piscicolas gây ra.
Vi khuẩn này phát triển mạnh ở môi trường có pH = 6,5 – 7,5, nhiệt độ nước 25 – 35oC.
Dấu hiệu bệnh lý của cá bệnh
Cá bệnh có dấu hiệu bơi tách đàn, bơi lờ đờ trên mặt nước, khả năng bắt mồi giảm đến ngừng ăn Các tơ mang cá bị thối nát, ăn mòn, rách nát, xuất huyết, thối rữa và có lớp bùn dính rất nhiều.
Bề mặt xương nắp mang bị xuất huyết, ăn mòn và có hình dạng không bình thường
Phương pháp phòng và trị bệnh
Cần thực hiện tốt khâu chuẩn bị ao nuôi, vét sạch bùn đáy ao Trong quá trình nuôi phải quản lý tốt môi trường để hạn chế ô nhiễm hữu cơ thông qua việc quản lý lượng thức ăn Định kỳ thay nước ao để giữ môi trường trong sạch.
Thường xuyên vệ sinh thành lồng bè để đảm bảo lưu tốc dòng nước chảy cho phù hợp Định kỳ xử lý nước bằng Virkon® A liều 0,7 kg/1.000 m3 nước ao hoặc cho vào các túi vải, treo xung quanh lồng bè để tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh
Trộn cho ăn liên tục 5 g Aqua C® Fish + 3 g Grow Fish trong 1 kg thức ăn, định kỳ từ 7 – 10 ngày/tháng để tăng cường sức đề kháng cho cá khi nhiệt độ thay đổi
Khi phát hiện bệnh sớm cần phải điều trị ngay bằng kháng sinh BayMet® liều 5 – 10 gram + Aqua C® Fish liều 5 gram trong 1 kg thức ăn (hoặc 1 kg BayMet®+ 1 kg Aqua C® Fish cho 3 – 5 tấn cá nuôi), cho ăn liên tục trong 7 – 10 ngày.
Tắm BayMet® với liều 2 – 5g/m3 .
BỆNH DO KÝ SINH TRÙNG
các bệnh do ngoại ký sinh trùng có tác động mạnh đến cá con trong quá trình ương.
Thực tế cho thấy, nhiều cơ sở ương giống có tỉ lệ hao hụt từ 50 – 70% chủ yếu là do cá con bị bệnh đốm trắng (trùng quả dưa tấn công), bệnh do trùng mặt trời và tà quản trùng, bệnh do sán lá đơn chủ, bệnh do giáp xác ký sinh (Argulus và Ergasilus).
Cách phòng trị: ao ương hoặc nuôi cá phải có sục khí.
Khi phát hiện cá bị bệnh cần bón:
Formol nồng độ 25 – 30ml/m3 trị thời gian dài và nồng độ từ 100 – 150ml/m3 nếu trị trong 15-30 phút;
CuSO4 (phèn xanh) nồng độ 2-5g/10m3 trị thời gian dài và từ 20 – 50g/10m3 trị trong 15 – 30 phút, cách ngày trị một lần; muối ăn dùng để phòng và trị bệnh cho cá, nồng độ 1-3% trị thời gian dài và 1-2% trị trong 10-15 phút.
BỆNH XUẤT HUYẾT
bệnh do vi khuẩn Aemomas hydrophia hoặc Edwardsiellatarda gây ra.
Cá có dấu hiệu toàn thân bị xuất huyết, hậu môn sưng lồi, bụng trương to, có dịch vàng hoặc hồng, đầu và mắt cá sưng và lồi ra.
Bệnh thường xuất hiện ở cá rô phi đỏ nuôi bè.
Biện pháp đề phòng: là tránh thả cá nuôi và hạn chế thay nước lúc giao mùa.
Nên định kỳ bón khử trùng nơi cho ăn.
cách trị là bón vôi và khử trùng nước, có thể trộn thuốc kháng sinh vào thức ăn cá, tỷ lệ tuỳ theo tình trạng bệnh.
CÁ TRƯƠNG BỤNG DO THỨC ĂN
thường xảy ra ở các ao, bè cho cá ăn thức ăn tự chế không được nấu chín, không đảm bảo chất lượng làm cá không tiêu hoá được thức ăn, bụng cá trương to, ruột chứa nhiều hơi.
Cá bơi lờ đờ và chết rải rác.
Biện pháp khắc phục:
là kiểm tra chất lượng và thành phần thức ăn để điều chỉnh lại cho thích hợp.
Nếu trường hợp nặng, thường xuyên có thể thay đổi thức ăn.
Trong thức ăn nên bổ sung men tiêu hóa (các probiotic…)
Có thể bạn quan tâm
Tên "Diêu Hồng" được dịch từ tiếng Trung Quốc để chỉ một loài cá thuộc họ cá tráp ở biển (Plectorynchus), và chúng rất giống loài cá rô phi đỏ. Ở Việt Nam, trường Đại học Cần Thơ đã nhập 1 đàn cá rô phi đỏ từ AIT (năm 1990) và thử nghiệm nuôi, nghiên cứu về sinh học, khả năng chịu đựng của rô phi đỏ với độ mặn, pH, nhiệt độ,...
Ương cá hương là bắt đầu từ con cá bột để đạt cỡ chiều dài 2,5-3 cm. Sau khi nở kích thước cá bột còn nhỏ, có chiều dài thân 0,6-0,8 cm, hoạt động rất yếu, phạm vi ăn hẹp, khả năng hấp thụ thức ăn kém. Ương cá hương là bắt đầu từ con cá bột để đạt cỡ chiều dài 2,5-3 cm. Sau khi nở kích thước cá bột còn nhỏ, có chiều dài thân 0,6-0,8 cm, hoạt động rất yếu, phạm vi ăn hẹp, khả năng hấp thụ thức ăn kém. Thời gian đầu thức ăn của loài cá bột rất giốngnhau, đều ăn động vật phù du loại nhỏ. Sau 10 ngày cá lớn dần và bắt đầu phân hoá về thức ăn. Theo quan sát thực tế, từ 14-15 ngày trở đi cá trắm cỏ đã ăn thức ăn xanh như bèo trứng cá, bèo tấm; cá trôi, cá Mrigan đã ăn mùn bã hữu cơ; cá mè trắng đã ăn thực vật phù du,… Tuy sự hấp thụ thức ăn còn bị động nhưng sự đồng hoá thức ăn của cá bột còn rất mạnh. Vì vậy trong giai đoạn này không thể nuôi thả ngay trong diện tích lớn được mà phải ương nuôi trong diện tích nhỏ, dễ tạo ra môi trường sống tốt giàu chất dinh dưỡng và không có địch hại. Kỹ thuật ương nuôi phải
Chuẩn bị ao: Đối với ao mới thả lần đầu cần thay nước vài lần cho hết nước chua, đáy có lớp bùn dày 10-15cm. Rắc 10-15 kg vôi bột/100 m2 ao, trộn đều với bùn và phơi khô cho đến khi nứt chân chim, sau đó cho nước ngập, ban đầu 0,8-1m, sau khoảng 1 tháng cho ngập 1,2-1,5m.
Sau khi đã thu hoạch tôm, tháo cạn nước, nếu ao không thoát tự nhiên thì phải dùng máy bơm bơm hết nước và hút bùn nhão dưới đáy ao ra ngoài.
Người nuôi cá điêu hồng không ai không gặp qua bệnh nổ mắt và bệnh trắng mang, thối mang trên cá điêu hồng. Bệnh thường xảy ra vào mùa có nhiệt độ nước tăng cao, khi hàm lượng oxy hoà tan trong nước thấp, cá nuôi với mật thả cao, trọng lượng cá từ 100g trở lên.