Chăm Sóc Lúa Xuân Đúng Cách

1. Chế độ phân bón: Tập quán canh tác cũ là bón phân đơn riêng rẽ, không cân đối được dinh dưỡng, dẫn đến mức độ lúa nhiễm bệnh cao, tỷ lệ hạt lép nhiều, trọng lượng hạt thấp.
Biện pháp tốt nhất là bón phân đa yếu tố NPK đã được cân đối dinh dưỡng phù hợp cho quá trình sinh trưởng, phát triển của cây lúa. Các giống lúa thuần và lúa lai sẽ có các công thức bón thúc khác nhau. Không bón thúc khi nhiệt độ thấp dưới 18 độ C.
- Với các giống lúa thuần: Bón lần 1 sau cấy 20- 25 ngày, dùng loại phân NPK 11-4-8 với lượng từ 20- 25 kg/sào Bắc bộ (360 m2). Bón lần 2 sau cấy 40- 45 ngày bằng 2 kg đạm + 2 kg kali cho mỗi sào Bắc bộ. Bón lần 3 trước khi lúa trỗ đòng 20- 25 ngày với 1 kg kali cho mỗi sào Bắc bộ, nếu lúa xấu nên bổ sung thêm 1 kg đạm.
- Với các giống lúa lai: Bón lần 1 sau cấy 18- 20 ngày bằng loại phân NPK 8-4-8 với lượng từ 20- 25 kg/sào Bắc bộ, các lần bón sau đều bón tương tự như với lúa thuần nhưng tăng thêm 1 kg kali cho mỗi lần bón để cây đạt năng suất cao nhất.
- Ngoài việc sử dụng NPK tổng hợp bà con có thể sử dụng 1 lọ 125 ml phân bón lá Komic kết hợp với 70- 80 ml thuốc Validacin để phun cho 1 sào trước khi lúa trỗ đòng 7- 10 ngày.
2. Chế độ nước tưới:
- Tưới tiêu đầu vụ (từ sau khi cấy đến lúa bắt đầu đẻ nhánh): Cho nước vào và luôn giữ ổn định mực nước 2- 3cm để cây lúa phát triển thuận lợi, đẻ nhánh tập trung.
- Tưới tiêu giữa vụ (từ giai đoạn đứng cái đến làm đòng): Kết hợp tưới nước với phơi ruộng để cho lúa đứng cây, có tính đàn hồi lớn, màu lá xanh tươi và giúp rễ ăn sâu. Khi lúa đẻ nhánh đủ số lượng cơ bản thì rút cạn nước, phơi khô mặt ruộng từ 5- 7 ngày, sau đó đưa nước vào lại.
- Tưới tiêu cuối vụ (từ thời kỳ cây lúa có đòng non đến thu hoạch): nên áp dụng công thức “nông ẩm, khô ướt liên hoàn”. Thời kỳ cây lúa làm đòng rất mẫn cảm với nước, thiếu nước lúa sẽ bị nghẹ đòng, trỗ bông không đều, hạt lép; do đó nên giữ mực nước 3- 5cm.
Khi lúa bắt đầu uốn câu cho đến thu hoạch rễ lúa phát triển kém nếu để úng nước cây lúa sẽ suy yếu, vì vậy chỉ cần giữ đủ ẩm để lúa đủ sức nuôi hạt và chống đổ. Thời gian từ chín nửa bông đến khi thu hoạch cần tháo cạn nước cho lúa chín đều.
3. Phòng trừ sâu bệnh:
Thường xuyên thăm đồng, kiểm tra tình hình sâu bệnh hại, phát hiện sớm để có biện pháp phòng trị kịp thời, tránh ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng gạo. Lúa vụ xuân thường có một số sâu bệnh hại như sâu cuốn lá nhỏ, sâu đục thân, bệnh đạo ôn, bệnh rầy nâu…
- Bệnh đạo ôn (còn gọi là bệnh cháy lá lúa): Dùng 12cc Filia 52SE pha trong bình 12 lít phun cho 1 sào Bắc bộ khi bệnh mới xuất hiện.
- Sâu cuốn lá nhỏ thường nở rộ và gây hại nặng trên diện rộng vào giai đoạn lúa đẻ nhánh cho đến ngậm sữa (khoảng 20- 25 ngày sau gieo) và giai đoạn từ làm đòng đến trỗ (khoảng 40- 60 ngày sau gieo) nên áp dụng các biện pháp tổng hợp ngay từ đầu vụ như phát quang bờ ruộng, dùng bẫy đèn tiêu diệt ngài, bón phân cân đối tránh để thừa đạm, tưới tiêu hợp lý và phun thuốc theo nguyên tắc 4 đúng sẽ cho hiệu quả phòng trừ cao.
Có thể bạn quan tâm

Loại phân sử dụng và lượng phân bón từng loại cho từng giai đoạn sinh trưởng của lúa được khuyến cáo như trong bảng ở phần cuối của Quy trình.

Xin giới thiệu một số biện pháp kỹ thuật nhằm rút ngắn thời gian sinh trưởng của lúa mùa để khắc phục hiện tượng bất lợi này.

Bệnh vàng lụi (còn gọi là bệnh vàng tạm thời hoặc bệnh vàng lá di động) là loại bệnh do vi rút Transitory yellowing gây lên và môi giới truyền bệnh là rầy xanh (Nephotettix cincticeps, N. Nigropictus và N. Viresent). Bệnh này xuất hiện từ năm 1958 và chủ yếu chỉ có ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam

Châu chấu non thường có 6 tuổi, màu xanh, râu sợi chỉ, mảnh lưng ngực trước dài hơn đầu, mầm cánh kéo dài tới đốt thứ giữa bụng. Châu chấu trưởng thành con cái thân dài hơn con đực, màu xanh vàng hoặc nâu bóng; râu đầu sợi chỉ có 23-28 đốt; mắt kép

Giống là một trong những yếu tố quyết định đến sự sinh trưởng, phát triển và năng suất lúa. Sử dụng hạt giống đạt tiêu chuẩn chất lượng tương đương cấp xác nhận (theo qui định của Bộ NN & PTNT) (xem tiếp)