10 Bài học để nuôi thành công tôm thẻ chân trắng tại Thái Lan
1. Sử dụng vôi và bã trà (saponin)
Vôi và bã trà (saponin) được sử dụng ở tất cả các trang trại nuôi tôm. Bã trà có tác dụng diệt tất cả các loại cá tạp có trong ao.
Vôi được sử dụng để điều chỉnh pH đất và pH nước bởi vì độ pH nước trong ao là tương đối thấp so với nhu cầu của tôm thẻ chân trắng (7,6-7,8).
2. Mật độ tôm thả nuôi
Qua nhiều năm thất bại do tôm nuôi ở mật độ cao.
Hiện nay người nuôi tôm ở Thái Lan đã giảm mật độ tôm nuôi. Mật độ tôm chân trắng thả nuôi được giảm xuống còn 60.000-100.000 con/rai
(rai: đơn vị đo diện tích ở Thái Lan, 1rai = 1.600 m2) tức là khoảng 37,5- 62,5 con/m2.
3. Phòng chống bệnh đầu vàng
Năm 1993 là năm mà bệnh đầu vàng bắt đầu bùng phát mạnh gây thiệt hại nghiêm trọng cho nghề nuôi tôm thẻ chân trắng tại Thái Lan.
Các nhà khoa học Thái Lan đã tập trung nghiên cứu để tìm cách phòng chống bệnh đầu vàng trên tôm có hiệu quả.
Đáng chú ý là năm 1995 Satapon Direkbusarakon đã nghiên cứu sử dụng dịch chiết xuất từ cây chó đẻ răng cưa để chặn lại sự nhiễm virus gây bệnh đầu vàng. Kết quả này đã mở ra một khả năng có thể sử dụng các loại thuốc có nguồn gốc từ thực vật để ngăn chặn sự bùng nổ của các bệnh do virus ở tôm cá.
4. Áp dụng hệ thống nuôi tôm khép kín
Năm 1994 tiến sĩ Kun Bunserm đã đề xuất nuôi tôm thẻ chân trắng bằng hệ thống nuôi tôm khép kín nhằm cách ly sự bùng phát dịch bệnh trong nuôi tôm.
5. Kiểm tra bệnh trên tôm giống thả nuôi bằng phương pháp PCR
Việc kiểm tra bệnh trên tôm giống bằng phương pháp PCR được đề xuất từ năm 1995 tại Thái Lan và được duy trì cho đến ngày nay.
Việc kiểm tra bệnh trên tôm giống bằng phương pháp PCR để loại trừ được các lô tôm giống mang mầm bệnh virus nguy hiểm mà có thể phát sinh thành dịch.
6. Kiểm tra định kỳ tôm nuôi bằng phương pháp PCR
Trong quá trình nuôi tôm, các trang trại nuôi tôm nếu quan tâm trong công tác xét nghiệm tôm nuôi bằng phương pháp xét nghiệm PCR thì sẽ thành công.
Những trang trại nuôi tôm tại Thái Lan không quan tâm đến vấn đề này đã phải trả giá trong giai đoạn từ năm 1996-2002.
7. Nguồn gốc tôm giống
Giai đoạn năm 2002-2003 là giai đoạn thành công của nghề nuôi tôm chân trắng tại Thái Lan.
Trong giai đoạn này, Thái Lan đã di nhập và phát triển tôm thẻ chân trắng có nguồn gốc từ Hawaii thông qua công ty Charoen Pokphand Foods Plc.
Tỷ lệ sống của tôm nuôi đạt hơn 90% và kích cỡ tôm thương phẩm đạt 50-60 con/kg.
8. Công tác di truyền và chọn giống được quan tâm
Các nhà nghiên cứu về di truyền và chọn giống đã tiếp cận vấn đề này và tham gia nghiên cứu phát triển giống tôm ở Thái Lan.
Điều này mở ra một tương lai tươi sáng cho ngành công nghiệp nuôi tôm tại những nước này.
9. Oxy trong ao nuôi
Người nuôi tôm tại Thái Lan đặc biệt quan tâm đến oxy trong ao nuôi tôm.
Ngoài cánh quạt, trong hệ thống các ao nuôi tôm tại Thái Lan được trang bị các hệ thống khuếch tán oxy tầng đáy. Mức oxy hoà tan trong ao luôn duy trì mức độ từ 6-8 mg/l. Đáp ứng nhu cầu cho tôm, vi sinh, tảo và phân giải khí độc.
10. Quản lý chất lượng toàn diện
Vấn đề này được đặt ra từ năm 2004 cho ngành công nghiệp nuôi tôm tại Thái Lan
. Việc quản lý chất lượng được quan tâm kiểm soát chặt chẽ từ khâu đầu tiên: tôm bố mẹ, sinh sản…đến khâu cuối cùng: thu hoạch tôm, bảo quản, xuất khẩu… để đảm bảo được chất lượng tôm xuất khẩu an toàn vệ sinh thực phẩm, mẫu mã bắt mắt… được thế giới ưa chuộng.
Có thể bạn quan tâm
Khi sinh sản, con đực và con cái ghép tình với nhau nơi yên tĩnh gần bờ có cây cỏ thủy sinh để đẻ trứng. Khi cá cái đẻ xong, cá đực thường gom trứng vào miệng và nhả trở lại mặt nước dưới dạng tổ bọt. Trong giai đoạn phôi thai và giai đoạn cá mới nở, cá đực và cá cái thay nhau canh gác để bảo vệ tổ đàn con của chúng.
Hiện nay, đã vào giai đoạn những tháng gần cuối năm 2014, do đó thường xuyên xuất hiện nhiều cơn mưa lớn kéo dài nhiều ngày liên tục, làm cho việc quản lý sức khỏe tôm nuôi gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt, đối với những ao đáy cát, cát bùn, đất phèn;
Nuôi cá trong mùng lưới trên sông tận dụng được diện tích mặt nước sông, kênh, rạch có dòng nước chảy qua. Với diện tích nuôi nhỏ, mật độ thả cao, người nuôi sẽ dễ dàng trong khâu chăm sóc, quản lý và thu được năng suất cao.
Cá trê là loài cá da trơn, miệng dưới, ăn ở tầng đáy, sống vùng nước ngọt, trọng lượng trung bình khoản 0,3-1kg, tuy nhiên nếu nuôi thời gian lâu cá sẽ lớn hơn.
Cá bớp là một loài cá bống nước lợ. Nó là loài có kích thước nhỏ. Cá trưởng thành có chiều dài thân 12 – 15 cm, khối lượng 20 – 40 g. Sản lượng không nhiều, tuy vậy ở một số thị trường như Hồng Kông, Ðài Loan … rất được ưa chuộng có giá cao nhất. Nếu có sản lượng cao có khả năng xuất khẩu.