Bệnh Cháy Nhũn Lá
Triệu chứng bệnhBệnh này đã được ghi nhận trên đậu nành trồng ở vùng nhiệt đới và bán nhiệt đới. Đầu tiên, bệnh được ghi nhận ở Philippines vào năm 1918; sau đó, ở Ấn Độ, Mã Lai, Mexico, Puerto Rico, miền nam Trung Quốc, Taiwan và Louisiana. Ở Louisiana, bệnh đã làm giảm 35% năng suất. Ngòai đậu nành, nấm bệnh còn tấn công trên các loài đậu khác, như: đậu xanh (Phaseolus vulgarus), đậu lima (P. limemsis), cowpeas (Vigna spp.), clover (Trifolium spp.), đậu nành hoang (Glycine javanica), v.v..., trên lúa và các loài cỏ dại.
Tại Việt nam, bệnh có thể đã xuất hiện từ lâu. Bệnh đã ngày càng phổ biến, góp phần làm giảm năng suất đậu nành trồng ở Đồng bằng sông Cửu Long trong những năm đầu của thập kỷ 80. Trong thời gian này, việc phòng trị bệnh chưa được hữu hiệu vì chưa rõ nguyên nhân gây bệnh. Đến vụ hè - thu 1985, bệnh mới được xác định tác nhân gây bệnh và các điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển của bệnh.
Bệnh thường xuất hiện khi đậu bắt đầu ra hoa và sẽ phát triển mạnh sau đó. Bệnh cũng có thể tấn công khi đậu còn nhỏ (hai tuần sau khi gieo). Bệnh xuất hiện càng sớm thì càng làm giảm năng suất. Bệnh phát sinh và lây lan nhanh khi có mưa nhiều (ẩm độ cao), và sẽ ngưng phát triển khi gặp trời nắng khô. Bệnh nặng ở những ruộng đậu trồng ngay sau vụ lúa bị nhiễm bệnh đốm vằn hoặc ở những ruộng đậu được ủ gốc bằng rơm lúa bệnh đốm vằn. Đậu được gieo sạ dày, nhiều cỏ dại, bệnh sẽ dễ dàng phát sinh, lây lan và lưu tồn cho vụ sau.
Trong ruộng đậu có từng lõm nhỏ bị héo úa rồi lụn dần. Lá mới bị nhiễm bệnh sẽ biến màu như bị nhúng vào nước sôi, có những đốm to màu xanh nâu. Sau đó, lá trở nên nhủn nước và rủ xuống, bề mặt lá có nhiều sợi nấm trắng làm cho lá kết dính với các lá khác và với các cành, thân, trái bên dưới, làm cho các bộ phận này bị nhiễm bệnh. Lá dần dần cháy khô. Cành, thân, trái cũng có những vết nâu và cháy khô. Dấu hiệu nổi bật của bệnh này là có sự xuất hiện của các sợi nấm và hạch nấm (sclerotes) trên các bộ phận bị bệnh. Bệnh nặng làm lá, cành, trái rụng sớm, cây sinh trưởng kém.
Tác nhân gây bệnh
Do nấm Rhizoctonia solani Kuhn, giai đọan sinh sản hữu tính là Thanatephorus cucumeris thuộc lớp nấm Đãm.Đây là loại nấm sống trong đất, có khả năng sống cạnh tranh hoại sinh rất mạnh và tạo hạch. Trên lá, thân, cành và trái của các cây bệnh có nhiều sợi nấm trắng hoặc nâu và hạch nấm được hình thành trên đó. Khi mới được thành lập, hạch nấm có màu trắng; sau đó, chuyển dần sang màu nâu hoặc nâu đen. Hạch nấm có hình dạng và kích thước rất thay đổi.
Chúng có dạng tròn hoặc bầu dục nhưng mặt bám vào cây thì dẹt, có đường kính: 1 - 4 mm, bề mặt của hạch nấm có nhiều lổ nhỏ như tổ ong, có chất dịch màu nâu vàng đọng lại ở hạch còn non. Các hạch nấm mọc riêng lẻ hoặc kết dính vào nhau thành từng cụm. Hạch nấm được cấu tạo bởi những sợi nấm cuộn vào nhau một cách lỏng lẻo. Sợi nấm có tính phân nhánh vuông góc và sợi nấm con co thắt lại ở điểm kết hợp với sợi nấm mẹ. Sợi nấm có đường kính: 3 - 17 micron, tỉ lệ chiều dài và đường kính sợi nấm là 5:1.
Biện pháp phòng trị
- Giống: Đa số các giống đều nhiễm bệnh nặng. Một số giống tỏ ra ít nhiễm như: Dun, Hạt to Lâm Đồng, Santa Maria, MTĐ 64, MTĐ 134 - 2, MTĐ 134 - 10, MTĐ 170 - 1 MTĐ 172 - 7, MTĐ 173 - 6, MTĐ 176 và MTĐ 225 - 3. Giống càng ngắn ngày thì bệnh càng trở nên trầm trọng hơn.
- Kỹ thuật canh tác: không nên trồng đậu sau vụ lúa bị nhiễm bệnh đốm vằn và không ủ ruộng đậu bằng rơm lúa bị bệnh này. Không gieo sạ dày, khi gieo nên áp dụng phương pháp gieo xen các hốc giữa các hàng (cây ít bị giáp tán) sẽ hạn chế được sự bộc phát và lây lan của bệnh.
- Thời vụ: vụ đông - xuân, bệnh thường ít xảy ra. Nếu trồng đậu vào vụ xuân - hè, nên gieo sạ sớm, bệnh sẽ ít tác hại đến năng suất.
- Vệ sinh đồng ruộng: áp dụng phương pháp giống như ở bệnh rỉ, đặc biệt chú ý đến việc làm sạch cỏ vì đây cũng là nguồn lưu tồn và lây lan quan trọng đối với bệnh này. Kết quả điều tra hai vụ xuân - hè và hè - thu 85 tại Nông Trại Thực Nghiệm Khu II, trường Đại Học Cần Thơ, cho thấy có 10 loài cỏ dại hiện diện trong ruộng đậu, là ký chủ phu của bệnh này: Cỏ mật (Brachiaria distachya), Cỏ cú (Cyperus rotundus), Cỏ túc hình nhỏ (Digitaria ciliaris), Cỏ lồng vực nước (Echinochloa colona), Cỏ lông công (Echinochloa cruss - galli), Cỏ mần trầu (Eleusine indica), Fimbristylis diphylla Vahl, Cỏ đuôi phụng (Leptochloa chinensis), Cỏ ống (Panicum repens) và Paspalum sp.
-Xử lý với thuốc VALIDAN 5DD, BONANZA 100 DD
Có thể bạn quan tâm
Đây là một bệnh rất phổ biến ở các vùng trồng đậu nành, gây hại với các mức độ khác nhau, trên hầu hết các giống đang canh tác. Bệnh có thể xuất hiện trên tất cả các mùa vụ tại Đồng bằng sông Cửu long, nhưng bệnh thường phát triển mạnh vào vụ Hè Thu, khi có mưa nhiều, lớp không khí ở mặt đất có độ ẩm cao
Năm nay, mùa mưa đến trễ và mưa đầu mùa ít nên nhiều nơi trong tỉnh vẫn chưa thể xuống giống lúa, bắp hè-thu. Theo Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, thời điểm này xuống giống lúa đã muộn, vì vậy bà con nên chuyển qua trồng đậu nành, đậu xanh... vừa giúp cải tạo đất, cắt mầm bệnh tránh hạn cho vụ mùa
Chuẩn bị lượng đậu nành giống khoảng 120-130kg/ha. Khi lúa đông xuân vừa chín, tiến hành gieo sạ đậu nành trước rồi đưa máy gặp đập liên hợp vào thu hoạch lúa ngay (chú ý không để lâu, hạt đậu hấp thu nước sẽ bị mềm, khi đưa máy vào thu hoạch lúa sẽ làm ảnh hưởng đến hạt giống).
Hạt giống từ khi còn được mang trên cây sắp thu họach, đến giai đọan tồn trữ và được mang ra trồng, có thể bị nhiễm nhiều lọai bệnh hạt mang mầm bệnh bên trong hoặc trên lớp vỏ hạt
Bệnh còn được gọi là bệnh sương mai, rất phổ biến ở các vùng có khí hậu ẩm. Ở Đồng bằng sông Cửu long, bệnh thường nặng vào vụ Hè Thu và có thể thành dịch khi gặp điều kiện thuận lợi, ngay cả trong vụ Đông Xuân. Điều kiện khí hậu ở nước ta rất thích hợp cho bệnh này phát triển