Vì Sao Giấc Mơ Cá Cảnh Tiền Giang Chưa Thành?

Hơn 23 năm hình thành và phát triển, nhưng nghề nuôi cá cảnh ở Tiền Giang đến nay vẫn dậm chân tại chỗ, mặc dù tỉnh có đầy đủ yếu tố cả về thiên thời và địa lợi. Nguyên nhân do đâu?
Thăng trầm…
Nghề nuôi cá cảnh tại Tiền Giang hình thành từ đầu những năm 1980, với một cơ sở chuyên bán cá cảnh tại phường 1 (TP Mỹ Tho), nhưng chỉ vài năm sau đã đóng cửa. Đến năm 1990, nghề sản xuất, kinh doanh cá cảnh được nhen nhóm trở lại với vài hộ quy mô nhỏ.
Điển hình nuôi cá cảnh giai đoạn này là hộ ông Nguyễn Văn Giác ở phường 5 (TP Mỹ Tho) chuyên nuôi cá tàu, lia thia trên diện tích 400m2; hộ ông Lê Văn Đực (cũng ở phường 5) nuôi cá tàu, lia thia, trân châu, chép màu trên diện tích 300m2.
5 năm nay, quy mô cũng như sản lượng của các cơ sở sản xuất kinh doanh cá cảnh vẫn không có biến động lớn; có cơ sở sản xuất kinh doanh cá cảnh mới hình thành thì cũng có cơ sở hoạt động không hiệu quả phải đóng cửa và hầu hết đều không có kế hoạch mở rộng quy mô.
Hiện, các cơ sở sản xuất kinh doanh cá cảnh trên địa bàn tỉnh cung cấp cho thị trường hơn 20 loài cá cảnh nhưng chỉ 7 - 8 loài có thị trường tiêu thụ ổn định. Gần đây, cơ cấu các loài cá cảnh đã có chuyển biến rõ rệt theo hướng tăng tỷ lệ các loài giá trị cao.
Tuy nhiên, hiện nay các loại cá giá trị thấp vẫn chiếm tỷ lệ cao, trong số khoảng 3 triệu con cung cấp cho thị trường hằng năm thì các loài cá cảnh có giá trị cao (như cá dĩa, phượng hoàng, cá ba đuôi) chiếm gần 50% (so với 15% năm 2007), còn lại là các loài có giá trị thấp (như cá bảy màu, trân châu, lia thia).
Do đặc thù phân bố nên ở đây chủ yếu nuôi cá cảnh nước ngọt. Đến nay, việc tiêu thụ cá cảnh Tiền Giang chủ yếu vẫn qua thương nhân kinh doanh, xuất khẩu cá cảnh tại TP Hồ Chí Minh.
… và nhiều gian khó
Những khó khăn từ lâu đến nay vẫn chưa giải quyết được. Hầu hết các cơ sở sản xuất kinh doanh cá cảnh trong tỉnh này đều hình thành tự phát, manh mún, thậm chí cạnh tranh tiêu cực, chưa thống nhất được về một hướng. Đến nay vẫn chưa có tổ chức nào tập hợp được những người nuôi cá cảnh, quy hoạch nuôi cũng chưa được làm thử bao giờ.
Theo kết quả khảo sát, đa phần chủ các cơ sở sản xuất, kinh doanh chưa qua đào tạo bài bản, mà chủ yếu là tự mày mò, rút kinh nghiệm. Mặt khác, tài liệu kỹ thuật về cá cảnh rất hiếm, các lớp dạy nghề nuôi rất thưa thớt, người nuôi gần như chưa được trợ giúp gì về kỹ thuật nuôi, nguồn vốn sản xuất cũng như tiếp cận thị trường.
Những năm gần đây, tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng, các mương rạch trong thành phố dần bị thu hẹp, bồi lấp và nhiễm bẩn nên có hơn 2/3 số hộ nuôi cá cảnh đang sử dụng nguồn nước giếng khoan. Chất lượng nước giếng khoan tại TP Mỹ Tho có thể nuôi được nhiều loại cá cảnh nước ngọt nhưng khi muốn cho sinh sản một số loài cá có giá trị cao (như cá dĩa) cần có biện pháp giảm độ cứng.
Trong nuôi cá cảnh, trùn chỉ và trứng nước là hai loại thức ăn chủ lực. Trong đó, nguồn trứng nước đã chủ động sản xuất được trong tỉnh nhưng trùn chỉ thì lệ thuộc hoàn toàn vào nguồn cung cấp từ TP Hồ Chí Minh với số lượng có hạn và khan hiếm vào các tháng cuối mùa khô.
Cá cảnh thường mắc các bệnh ký sinh trùng, nấm, vi khuẩn. Tuy nhiên, khi cá mắc bệnh, việc điều trị chủ yếu là dùng thuốc xử lý nước, rất khó đưa thuốc vào cơ thể cá bằng đường thức ăn, vì cá cảnh có thói quen ăn thức ăn tươi sống. Hơn nữa, việc điều trị bệnh chủ yếu sử dụng kháng sinh trị bệnh cho người bán ở các tiệm thuốc tây để ngâm tắm cá bệnh và các thuốc thú y thủy sản khác chứ chưa có thuốc đặc trị cho cá cảnh.
Giải pháp nào?
Để nghề nuôi cá cảnh ở tỉnh Tiền Giang phát triển đáp ứng nhu cầu thị trường, Nhà nước cần có quy hoạch vùng nuôi tập trung, gắn tiềm năng với nhu cầu thị trường, từ đó đầu tư cơ sở hạ tầng và có chính sách hỗ trợ về vốn, tìm kiếm thị trường cho người nuôi.
Cần nhanh chóng xúc tiến thành lập hội cá cảnh để chia sẻ kinh nghiệm, kỹ thuật nuôi; nghiên cứu, tìm hiểu nhu cầu thị trường, tìm đầu ra ổn định cho cá cảnh.
Mặt khác, các hộ nuôi cá cảnh cần áp dụng một số biện pháp xử lý nước trước khi đưa vào nuôi cá (như lắng lọc nước bằng hệ thống lọc cơ học hay sinh học), để làm sạch và mềm nước, tạo môi trường thích hợp cho sự sinh sản và phát triển nhiều loài cá cảnh giá trị cao.
Đồng thời, nghiên cứu sử dụng các nguồn thức ăn tự nhiên có thể tự sản xuất được (như trứng nước, trùn quế, trùng cỏ, ấu trùng artemia) hay thức ăn viên tổng hợp. Nếu có điều kiện thì nuôi trùn chỉ tại nông hộ để chủ động được nguồn thức ăn và hạn chế mang mầm bệnh cho cá nuôi.
Nhu cầu tiêu thụ cá cảnh rất đa dạng và thường xuyên thay đổi nên việc kịp đáp ứng nhu cầu thị trường là khó. Tuy nhiên, nếu kiên trì gắn bó, chọn những loài có đầu ra ổn định, đầu tư sản xuất theo nhu cầu thị trường… thì đây là nghề sẽ cho thu nhập khá.
Có thể bạn quan tâm

Năng suất bình quân của các mô hình đạt trên 1.500 kg kén/ha dâu, tăng 15% so với đại trà; thu nhập từ kén đạt trên 150 triệu đồng/ha dâu; tập huấn cho hàng trăm hộ nông dân kỹ thuật nuôi tằm… là những kết quả nổi bật của dự án "Trồng dâu và nuôi tằm giống mới" do bà Nguyễn Thị Min - Trung tâm Nghiên cứu Dâu tằm tơ trung ương - Viện khoa học Nông nghiệp Việt Nam làm chủ nhiệm. Dự án được thực hiện từ năm 2011 đến năm 2013.

Diện tích trồng cây ăn quả ở xã Hoàng Hoa Thám (TX Chí Linh, Hải Dương) có xu hướng giảm do nông dân phá bỏ một phần diện tích vải thiều. Từ năm 2010 - 2012, Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học (Sở KH-CN Hải Dương) đã xây dựng mô hình SX thanh long ruột đỏ quy mô 1 ha với 6.000 hom.

Đang giữa mùa thu hoạch rộ, giữa những cánh đồng lạc xã Hoá Phúc (huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình), chúng tôi gặp nhiều người nông dân với niềm vui hiện rõ trên từng gương mặt.

Số điểm nóng kinh doanh gia cầm sống trái phép trên địa bàn TPHCM đã giảm đáng kể, từ 79 điểm vào thời điểm đầu tháng 4 còn 48 điểm tính đến tháng 6.

Cục trồng trọt vừa đề ra giải pháp rải vụ trên 5 loại cây ăn trái, kỳ vọng giải quyết được tình trạng cung vượt cầu vào chính vụ. Tuy nhiên, các nhà khoa học cho rằng, giải pháp này chưa chắc mang lại hiệu quả. Ngay cả địa phương được phân công làm nhóm trưởng cũng lo nông dân... không nghe theo.