Ứng dụng công nghệ bọt khí siêu nhỏ trong ương cá tra
Ứng dụng công nghệ Micro-nano Bubble Oxygen trong ương cá tra cho hiệu quả tích cực rõ rệt so với kỹ thuật thông thường.
Công nghệ Micro-nano Bubble Oxygen góp phần mang lại thành công trong sản xuất giống cá tra.
Các nghiên cứu về tác dụng của các bọt khí có kích thước nhỏ hoặc siêu nhỏ đang được quan tâm nhiều trong những năm gần đây, đặc biệt là ở Nhật Bản. Công nghệ Micro-Nano Bubble (MNO) lần đầu tiên được nghiên cứu thử nghiệm trong nuôi trồng thủy sản tại Nhật Bản tại các mô hình nuôi hàu và sò điệp quạt. Theo đó, tốc độ tăng trưởng của các đối tượng nuôi được cải thiện do đảm bảo hàm lượng oxy hòa tan luôn ở mức tối ưu trong suốt quá trình nuôi.
Trong thực tiễn, bọt khí cỡ nano có thể giúp tách các chất ô nhiễm ra khỏi môi trường nước, đặc biệt là chất béo và được cho là ảnh hưởng rất nhiều đến độ pH của nước. Khi các bọt khí cỡ micro hoặc nano khi bị teo nhỏ lại rồi vỡ ra sẽ phóng thích nhiều gốc tự do, có khả năng diệt khuẩn, khử mùi hôi. Hơn nữa, công nghệ tạo thành công thiết bị tạo bọt khí cỡ nhỏ và siêu nhỏ bằng nhựa gọi là Micro-Nano bubble Oxygen (MNO) khi được ứng dụng vào nuôi thủy sản sẽ mang lại một số lợi ích sau:
- Tạo ra rất nhiều oxy là nhân tố hủy diệt các loại vi khuẩn và các loại nấm gây các bệnh nguy hiểm vật nuôi;
- Tạo dư oxy làm kết lắng các loại phèn trong nước như phèn sắt, phèn nhôm và các kim loại nặng;
- Trung hòa amoniac và các loại khí độc khác (phản ứng hóa học hoặc sinh hóa với sự tham gia của các vi khuẩn hiếu khí);
- Giúp phát triển và kéo dài chu kỳ sinh trưởng của các loại tảo có lợi; và v) giúp các loại vi khuẩn hiếu khí có lợi phát triển tốt.
Như vậy, máy MNO có nhiều tính ưu việt có thể hỗ trợ và ứng dụng tốt cho việc nuôi thủy sản nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất. Công nghệ bọt khí MNO có thể xem là một trong các giải pháp tối ưu giúp người nuôi trồng thủy sản thành công.
Trong những năm gần đây một số nghiên cứu nhằm tăng tỷ lệ sống cho ương cá giống ở Đồng bằng sông Cửu Long tuy nhiên tỷ lệ sống ương cá tra từ bột lên giống còn thấp do tác động của quá nhiều yếu tố kỹ thuật, môi trường và chúng cần phải được kiểm soát và hoàn thiện. Do đó, việc nghiên cứu cải tiến quy trình sản xuất giống và ương cá giống là cần thiết nhằm cung cấp đủ cá tra giống có chất lượng cho nuôi thương phẩm. Việc sử dụng máy MNO để bố trí cải thiện hệ thống ương sẽ được xem như một giải pháp tốt cho việc hoàn thiện quy trình ương cá bột đến cá hương.
Ứng dụng công nghệ Micro-nano Bubble Oxygen trong ao ương cá tra
Bố trí thí nghiệm: Thí nghiệm ương cá tra bột đến cá hương ứng dụng công nghệ
Micro-Nano Bubble Oxygen theo mật độ ương. Sử dụng máy MNO (4HP; 3phase; Công suất: 70 m3/giờ) với khả năng cung cấp 20,5kg Oxy/ngày trong ao đất diện tích 2.000 m2, cụ thể:
+ Mật độ 500 con/m2: gồm 3 ao nuôi thí nghiệm công nghệ Micro-nano Bubble Oxygen và 1 ao nuôi đối chứng.
+ Mật độ 750 con/m2: gồm 3 ao nuôi thí nghiệm công nghệ Micro-nano Bubble Oxygen và 1 ao nuôi đối chứng.
Chăm sóc và quản lý: Sử dụng hỗn hợp thức ăn tự chế, trứng vịt tươi (chỉ lấy lòng đỏ luộc, xay nhuyễn), S-pak 2/5, S-pak 8/5, Tomking 1s, thức ăn cá giống cỡ 0,4 li 40% protein trở lên.
Cách cho cá bột ăn: cho ăn bằng tay, sử dụng hỗn hợp ủ tạt đều. Từ 01-04 ngày tuổi, cho ăn 01 lần/ngày vào lúc 9-10 giờ sáng và từ 05-30 ngày tuổi cho ăn 02 lần/ngày vào 7-8 giờ sáng và chiều 15-16 giờ.
Thời gian chạy quạt và máy MNO: từ 10-30 ngày tuổi bắt đầu vận hành hệ thống cung cấp oxy cho cá ương. Thời gian chạy từ 3-7 giờ sáng và chiều từ 14-15 giờ. Tùy theo tuổi cá, tình hình thời tiết, mật độ thả, sức khỏe cá mà điều chỉnh số giàn quạt, giờ chạy quạt hợp lý, tránh để hàm lượng oxy <4 mg/L.
Việc ứng dụng công nghệ Micro-Nano Bubble Oxygen trong ao ương cá tra giai đoạn từ cá bột đến cá hương đã cho thấy những kết quả tích cực. Thiết bị MNO đã cũng cấp và đảm bảo hàm lượng oxy hòa tan ở mức khá cao khoảng 7,42-8,74 mg/L cao hơn ao đối chứng (5,32-6,85 mg/L) và góp phần nâng cao tỷ lệ sống của cá trong các ao ứng dụng MNO so với ao không ứng dụng. Sau thời gian 28-29 ngày ương nuôi, hiệu quả sản xuất của việc ứng dụng MNO đã cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê rõ ràng giữa ao đối chứng và ao thí nghiệm.
Sau 29 ngày ương nuôi, tỷ lệ sống của cá hương ở 02 thí nghiệm loại ao mật độ 500con/m2 và 750con/m2 đạt lần lượt 31,23 – 32,32% cao hơn ao đối chứng (21,36-22,99%). Tương tự, hệ số chuyển đổi thức ăn FCR của cá ở các ao thí nghiệm từ 0,56 -0,62 thấp hơn ao đối chứng (0,71- 0,76).
So sánh kết quả giữa 02 mật độ ương cho thấy ao thí nghiệm với mật độ 750 con/m2 đạt năng suất trung bình là 285,65 kg/1.000m2 cao hơn các ao thí nghiệm ở mật độ 500 con/m2 là 193,35kg/1.000m2 và có hiệu quả kinh tế cao hơn so với ao đối chứng (P<0,05).
Ứng dụng công nghệ MNO đã đảm bảo cung cấp tốt hơn hàm lượng oxy hòa tan cho ao nuôi, và cũng góp phần giảm tiêu thụ điện trong vận hành hệ thống cung cấp oxy cho ao nuôi từ 5,0-16,14% so với ao đối chứng.
Việc ứng dụng công nghệ MNO trong ao ương cá tra giai đoạn từ cá bột đến cá hương đã cho thấy những kết quả tích cực và ương với mật độ 750 con/m2 là phù hợp đảm bảo hiệu suất kinh tế.
Theo Phùng Thị Hồng Gấm, Nguyễn Trọng Huy, Châu Hữu Trị, Thới Ngọc Bảo, Đỗ Văn Hoàng, Phan Thanh Lâm.
Có thể bạn quan tâm
Trong môi trường nước bị ô nhiễm, giun sán sẽ phát triển nhiều, thường thành dịch. Bệnh không gây chết cá hàng loạt nhưng làm giảm tăng trưởng
Biện pháp hỗ trợ giảm tình trạng nhiễm ký sinh trùng, nâng cao tỷ lệ sống, đảm bảo con giống cá tra sạch bệnh.
Trong môi trường nước bị ô nhiễm, giun sán sẽ phát triển nhiều, thường gây thành dịch. Bệnh không làm chết cá hàng loạt nhưng làm giảm tăng trưởng, ảnh hưởng