Trị Giun Phổi Trâu, Bò
Xin giới thiệu với bà con cách trị giun phổi trâu, bò.
1. Nguyên nhân gây bệnh:
Bệnh giun phổi ở loài nhai lại còn gọi viêm phế quản, nguyên nhân do ký sinh trùng. Bệnh thường phát nhiều ở loài nhai lại, nhất là bò từ 2-12 tháng tuổi, sau đó giảm dần, đến tuổi trưởng thành bệnh nhiễm rất thấp. Bệnh gây ra do giun Dictyocaulus viviparus ký sinh ở phế quản và khí quản trâu bò và Dictyocaulus filaria ký sinh ở dê, cừu.
2. Cơ chế lây lan:
Giun trưởng thành sống ở đường hô hấp của phổi, khí quản và phế quản. Giun rất nhỏ, mảnh, dài 3-5 cm, dễ nhìn thấy khi mổ khám. Giun trưởng thành đẻ trứng, trứng có thể nở ngay thành ấu trùng, con vật ho bật lên, nuốt vào đường tiêu hoá và thải theo phân ra ngoài. Ở ngoài môi trường chúng nhanh chóng lột xác 2 lần thành ấu trùng III, gọi là ấu trùng cảm nhiễm, có khả năng gây bệnh.
Bò ăn phải ấu trùng lẫn trong cỏ, nước uống, ấu trùng tới ruột non, lột bỏ màng bọc, chui vào niêm mạc ruột, theo hệ lâm ba vào máu và về phổi. Tới phổi ấu trùng chui qua mạch máu vào phế bào và các phế quản nhỏ phát triển thành giun trưởng thành. Thời gian hoàn thành vòng đời từ 21-30 ngày và chúng có thể sống ở phổi từ 2 tháng đến 1 năm.
3. Cơ chế sinh bệnh:
Ấu trùng di hành làm tổn thương một số cơ quan tổ chức như: Niêm mạc ruột, hạch lâm ba, phế quản ... Nếu nhiễm lượng giun lớn, gây viêm phổi, khó thở, ho, khí quản mất tính đàn hồi, nếu nhiễm khuẩn thứ phát có thể có mủ hay hoại tử phổi. Mặt khác chúng tiết độc tố làm con vật ngộ độc, sốt cao, gầy yếu...
4. Triệu chứng lâm sàng:
Thường biểu hiện giới hạn ở gia súc non bao gồm: Ho khan, ho ướt, số lần ho tăng dần lên (ho nhiều vào ban đêm). Con vật khó thở, chảy nước mũi, sốt từ 39,5-400C. Ăn kém hoặc bỏ ăn, gầy yếu dần, nếu phổi nhiễm trùng có mủ hoặc hoại tử con vật sẽ bị tử vong.
5. Bệnh tích:
Xác chết gầy, dưới da thuỷ thũng, xoang ngực tích nước, phổi sưng to, trên mặt phổi nhiều mụn, mầu phổi giống mầu gan và giun chứa đầy trong các chi nhánh phế quản.
6. Phòng và điều trị bệnh:
Phòng bệnh:
- Cho ăn đủ khẩu phần và cân đối về dinh dưỡng nhằm nâng cao sức đề kháng.
- Tẩy giun định kỳ bằng một trong các loại thuốc ở phần điều trị.
- Thực hiện tốt công tác vệ sinh thú y như: Chuồng trại khô ráo, sạch sẽ, ủ phân diệt trứng giun định kỳ
Điều trị: Có thể dùng một trong các loại thuốc sau.
- Ivermectin: 2,5- 3 mg/kg thể trọng, tiêm bắp.
- Levamison: 6-7,5 mg/kg TT, tiêm bắp.
Có thể bạn quan tâm
Trong chăn nuôi bò sữa, công tác chọn đúng giống, giống tốt phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng là yếu tố chính quyết định tới năng suất sữa.
Tinh viên hay còn gọi là tinh đông viên được SX từ tinh dịch của bò đực giống. Sau khi pha loãng trong môi trường, người ta làm đông lạnh để bảo quản. Loại tinh đông viên có giá thành rẻ, dễ SX, dễ bảo quản. Dụng cụ dùng để phối tinh đơn giản và rẻ tiền. Tuy vậy ở dạng tinh đông viên có nhược điểm: Trong quá trình thao tác dễ nhiễm bẩn và không ghi lại được số liệu của con đực giống trên viên tinh từ đó khó khăn cho công tác quản lý giống. ở nước ta đã SX thành công tinh đông viên ở Trung tâm Moncada bao gồm các giống bò Redsindhi, Brahman, Saliwal chủ yếu phục vụ cho chương trình sinh hoá đàn bò để cải tạo đàn bò vùng địa phương như ở Hàm Thuận Bắc đã thực hiện.
Bò cái dễ bị kích thích, không ở yên, hay đi lại, có xu hướng đến gần người và người dễ đến gần; mắt tinh và sáng hơn thường lệ; bò tỏ ra bồn chồn ngơ ngác.
Chăn nuôi trâu bò là nghề truyền thống của nông dân Việt Nam. Chăn nuôi trâu bò ở nước ta mang tính kiêm dụng theo hướng khai thác sức kéo - phân bón -thịt. Thời gian gần đây, chăn nuôi trâu bò đang chuyển sang kiêm dụng thịt – phân bón – sức kéo và dần hình thành hướng chăn nuôi chuyên thịt (chủ yếu trên bò).
Sữa mẹ trong 7 ngày đầu có nhiều Colostrum do thành phần sữa có kháng thể và nồng độ dinh dưỡng cao nên phải cho bê bú không được nhập chung vào sữa hàng hóa. Đối với bò khai thác sữa, không được cho bê bú trực tiếp mà phải vắt ra xô rồi tập cho bê uống tránh cho bò mẹ có phản xạ mút vú vì như thế sẽ rất khó vắt sữa sau này.