Thương Hiệu Hóa Cá Tra
Nghị định 36/2014/NĐ-CP về nuôi, chế biến và xuất khẩu sản phẩm cá tra mới được ban hành, có hiệu lực từ ngày 20/6/2014, đang thu hút sự quan tâm của giới thương nhân, người nuôi... Theo đó, hoạt động nuôi, chế biến, xuất khẩu cá tra thương phẩm là một ngành kinh doanh có điều kiện. Con cá tra Việt Nam được gắn “vòng kim cô” tiêu chuẩn, chất lượng, nguồn gốc...
Có người ví Nghị định 36 đã tạo một con sông lớn- chuỗi sản xuất, chế biến nội địa- để con cá tra Việt Nam thuận dòng bơi một cách đầy tự tin ra biển cả- thị trường thế giới. Vì sao vậy?
Nhìn ngược thời gian, chỉ trong thời gian ngắn, cá tra Việt Nam đã “vượt vũ môn”, “bơi” đến 149 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, riêng EU và Mỹ chiếm gần 1/2 sản lượng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu cá tra năm 2010 chỉ 1,1 tỷ USD, năm 2011và 2013 nhảy vọt lên 1,8 tỷ USD, năm 2014 dự báo khoảng 1,6 tỷ USD.
Thế nhưng, thực tế vẫn chưa vui. Nhiều năm qua, con cá tra Việt Nam luôn tự luồn lách trong những lạch lớn, sông nhỏ, gặp vô vàn trở ngại trước khi ra đến biển.
Một nước xuất khẩu cá tra gần như “độc tôn” thế nhưng chuỗi giá trị cá tra bị đứt gãy không kiểm soát được! Quy hoạch vùng nuôi nhiều bất cập. Chất lượng không đồng đều. Người nuôi nhiều khi thua lỗ, treo ao. Nhà máy chế biến lắm lúc đói nguyên liệu, chạy cầm chừng. Quan hệ nhà nông- doanh nghiệp được gắn kết bằng... khẩu hiệu. Doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu mạnh ai nấy làm, cạnh tranh thiếu lành mạnh. Còn nhiều, nhiều lắm những điều “biết rồi khổ lắm nói mãi... vẫn thế” khác nữa.
Điều tất yếu xảy ra: Cá tra Việt Nam đã vấp phải những hàng rào kỹ thuật của nước nhập khẩu dựng lên với những vụ kiện chống bán phá giá, những cuộc điều tra, những phán quyết bất công, những quy định ngặt nghèo về chất lượng, xuất xứ..., thậm chí có thị trường đã “cấm cửa”... Vượt qua những rào cản đó vô cùng cam go, có những lúc bất khả thi!
Vì vậy, vấn đề nâng tầm con cá tra Việt Nam đã được đặt ra từ lâu. Nghị định 36 đã được lấy ý kiến đóng góp trong gần 5 năm qua. Có nhiều ý kiến trái chiều, thậm chí có cả những lời than thở “cá tra quằn quại với một núi tiêu chuẩn”... Nhưng cuối cùng, một văn bản pháp lý ở tầm vĩ mô cũng được ra đời.
Nghị định 36 được kỳ vọng sẽ xác lập trật tự mới, gắn kết chuỗi giá trị, thương hiệu hóa cá tra..., thật sự là một “con sông lớn” cho những đàn cá tra Việt Nam tự tin bơi ra biển lớn!.
Có thể bạn quan tâm
Theo Viện trưởng Lê Quốc Doanh thì lạc dại (Arachis pintoi) là cây họ đậu thuộc loại thân bò, sinh trưởng vô hạn, hoa có màu vàng tươi, hạt nhỏ (8-12mm x 4-6mm), màu nâu nhạt, rễ có nhiều nốt sần có khả năng cố định đạm từ nitơ khí trời rất tốt. Lạc dại dễ trồng, sinh trưởng, phát triển nhanh, có thể thích ứng với nhiều loại đất từ đất xấu bạc màu, nghèo dinh dưỡng, đất đồi núi dốc đến đất cát, đất chua mặn ven biển.
Thế nhưng khi về huyện Cẩm Mỹ (Đồng Nai), chúng tôi mới biết rằng "di chứng" của cơn sốt gạo ấy vẫn còn gây lo lắng cho người nông dân nơi này, nhất là với những hộ lâu nay sinh sống chủ yếu nhờ vào cây bắp.
Mùa nước nổi năm nay có rất nhiều mô hình làm giàu từ lũ được nhân rộng ở các địa phương vùng ĐBSCL như: nuôi tôm càng xanh, nuôi cá chình, lươn, cá lóc, cá bông... ở các huyện: Tân Châu (An Giang), Hồng Ngự, Tân Hồng (Đồng Tháp), Tân Hưng (Long An)...
Gần đây, trong làng giống cây trồng Việt Nam xuất hiện một tên tuổi mới, đó là thương hiệu Sao Cao Nguyên® Seeds. Nắm bắt được thị hiếu người tiêu dùng và người sản xuất, Cty này đã cùng một lúc đưa ra thị trường 3 giống khổ qua lai F1 với các đặc tính cơ bản như: thu trái sớm; trái sai, thời gian thu trái dài; màu sắc, hình dáng đẹp; cứng trái thích hợp vận chuyển xa và bảo quản lâu. Các giống lai này có tính thích nghi rộng, phù hợp với nhiều vùng miền ở cả Bắc, Trung, Nam.
Trong ao cá tra thì oxy thường cao ở lớp nước mặt (1 mét đến 1,5 mét) vào ban ngày và có thể giảm rất thấp vào ban đêm. Sự thiếu oxy trong ao cá tra có thể do ao nuôi cá có nhiệt độ nước cao (biến động 28-32°C) dẫn đến hệ số hòa tan oxy vào nước giảm, mật độ nuôi quá cao, đáy ao có nhiều hợp chất hữu cơ tích tụ hay sục khí không đầy đủ.