Phòng trị bệnh xuất huyết trên cá rô phi
Tác nhân gây bệnh
Bệnh xuất huyết trên cá rô phi do một số các loài vi khuẩn như Aeromonas sp, Pseudomonas sp… gây nên.
Đây là những chủng vi khuẩn gram âm, có dạng hình que, di động, có khả năng gây tan huyết, phá hủy các mô cơ.
Dấu hiệu
Cá bị bệnh có hiện tượng ăn kém hoặc bỏ ăn, da có màu đen sạm, bơi lội chậm chạm, thường nằm gần bờ ao hoặc các cống nước.
Ngoài ra, cá có biểu hiện ngứa ngáy, phản ứng mạnh với các tác nhân bên ngoài.
Trên thân có nhiều đốm đỏ; da, mang, hậu môn bị xuất huyết.
Góc vây, hàm dưới của nắp mang bị tụ máu thành những lớp màu đỏ.
Xoang bụng bị xuất huyết nội tạng.
Phân bố và lan truyền bệnh
Bệnh xuất hiện ở khắp các giai đoạn phát triển của cá.
Bệnh thường xảy ra khi cá bị sốc hay trong thời tiết bất lợi, chuyển mùa.
Đặc biệt, bệnh phát triển mạnh trong môi trường nước nuôi bị nhiễm bẩn, lượng khí độc tích lũy nhiều dưới đáy ao, hàm lượng ôxy hòa tan thấp.
Bệnh lây truyền theo chiều ngang, lây trực tiếp từ con khỏe sang con yếu hoặc bệnh có thể lây lan theo nguồn nước cấp.
Não tụ máu
Phòng bệnh
Tiến hành các biện pháp phòng bệnh tổng hợp cho cá.
Chọn cá giống khỏe mạnh, vận chuyển giống cẩn thận, không xây xát.
Nuôi lồng: Cần vệ sinh lồng nuôi sạch sẽ, loại bỏ rong rêu, chất bẩn bám làm tăng dòng chảy lưu thông, vớt phân cá, xác cá để tránh tích lũy mầm bệnh.
Nuôi ao: Cần cải tạo ao theo đúng quy chuẩn kỹ thuật trước và sau mỗi vụ nuôi, định kỳ 15 – 20 ngày bón vôi với liều lượng 2 – 3 kg/100 m².
Kiểm soát lượng phân động vật bón xuống ao đặc biệt là những ngày trời nắng nóng.
Cần có biện pháp bảo đảm hàm lượng ôxy hòa tan, đặc biệt vào những ngày thời tiết bất thường, đứng gió.
Hạn chế lấy nước từ ngoài vào hệ thống nuôi cá rô phi khi vùng nuôi xảy ra dịch.
Ương nuôi với mật độ thích hợp.
Hạn chế hoạt động đánh bắt, kéo lưới, làm xây xát, tổn thương cá.
Bổ sung vitamin C, vitamin tổng hợp cho cá với liều lượng 30 mg/kg thức ăn, một tuần/lần.
Ngoài ra có thể sử dụng tỏi tươi, xay nhuyễn, kín với liều lượng 3 – 5 g /kg thức ăn, 1 tuần/lần.
Xuất huyết mang
Trị bệnh
Bệnh được chữa trị trong giai đoạn đầu phát hiện bệnh bằng kháng sinh kết hợp với xử lý môi trường nước nuôi.
Một số loại kháng sinh có thể sử dụng để trị bệnh xuất huyết trên cá rô phi:
Nếu bệnh trên cá rô phi giống có thể sử lý bằng phương pháp tắm với Oxytetracylin, nồng độ 25 – 50 ppm hoặc Streptomycin, nồng độ 30 – 50 ppm.
Cá thịt xử lý bằng phương pháp trộn Sulphamid với thức ăn, liều lượng 150 – 200 mg/kg cá/ngày.
Thuốc phối chế KN-O4-12 liều dùng 2 – 4 g/kg cá/ngày.
Sử dụng thuốc để trị bệnh cho cá liên tục trong khoảng 5 – 7 ngày.
Riêng đối với kháng sinh từ ngày thứ 3 trở đi, liều lượng có thể giảm 1/3 – 1/2 lượng thuốc kháng sinh.
Trong thời gian điều trị bệnh lượng thức ăn giảm còn khoảng 1/2 – 2/3 lượng thức ăn thông thường.
Sau khi điều trị bệnh bằng kháng sinh có thể sử dụng một số loại men vi sinh để ổn định vi khuẩn đường ruột cho cá.
Việc sử dụng thuốc kháng sinh trị bệnh cho cá cần lưu ý, vì sử dụng kháng sinh liên tục với liều lượng cao dần sẽ gây hiện tượng kháng thuốc của vi khuẩn và ảnh hưởng đến kháng sinh tồn dư trong thịt cá.
Có thể bạn quan tâm
Tuổi và kích thước thành thục lần đầu của cá rô phi phụ thuộc vào loài cá, môi trường sống và chế độ dinh dưỡng của cá. Sống trong điều kiện thuận lợi, giàu thức ăn cá lớn nhanh và phát dục cỡ lớn. Còn khi sống ở nơi thiếu thức ăn, cá sẽ thành thục cỡ nhỏ.
Trong 3 năm (1994 - 1996), cả 4 dòng cá rô phi vằn nhập nội đã được đưa vào nuôi thử nghiệm tại Viện Nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản 1 và nhiều địa phương trên miền Bắc nước ta: ở vùng nước lợ tỉnh Quảng Ninh, trong ao gia đình của tỉnh Hải Dương (vùng đồng bằng) và của tỉnh Thái Nguyên (vùng miền núi).
Nuôi từ cá giống thành cá bố mẹ hoặc thả cá bố mẹ vào ao đẻ cho cá đẻ tự nhiên. Sau khi cá đẻ, chuyển cá bố mẹ từ ao cá đẻ vào ao nuôi vỗ tiếp để cho đẻ lứa tiếp theo và dùng ao cá đẻ làm ao ươm cá bột.
Cá rô phi vằn dòng việt (1) là dòng cá được nhập từ đài loan vào miền Bắc nước ta năm 1973 và sau khi giải phóng miền Nam được chuyển ra Viện Nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản 1 năm 1977. Dòng cá này được lưu giữ chu đáo và chăm sóc tốt nên đã thích nghi cao với điều kiện các tỉnh phía Bắc.
Đến thời kỳ sinh sản, cá rô phi có hiện tượng “áo cưới”, rõ nhất là ở cá đực. Lúc này cá có màu sắc sặc sỡ hơn, các vạch ngang thân có màu sắc đậm hơn. Cá đực và cá cái bơi bám sát nhau. Cá đực và cá cái cùng hợp lực đào hố ở đáy ao. Cá chỉ ngừng đào khi hố đẻ đã như ý: hình tròn, dốc thoai thoải, trơn nhẵn và không còn bùn lắng đọng.