Phòng trị bệnh trong sản xuất giống tôm càng xanh
Xử lý tôm bố mẹ và ao, bể ương
Tôm bố mẹ phải khỏe mạnh, không mang mầm bệnh.
Trước lúc thả phải được tắm khử trùng bằng hóa chất.
Ao, bể nuôi phải được tẩy vôi tiệt trùng.
Bể ương, dụng cụ ương nuôi phải được tiêu độc bằng Chlorine (40 – 50 mg/m3) hoặc thuốc tím.
Trong quá trình nuôi tôm bố mẹ, cần giữ cho môi trường (mức nước, nhiệt độ, pH, độ mặn…) ổn định, tránh tác động xấu bất lợi cho tôm.
Thức ăn cho tôm bố mẹ phải tươi sống, giàu đạm, có thể bổ sung Vitamin C, khoáng chất và một số loại thuốc phòng, trộn vào thức ăn để tăng sức đề kháng.
Đối với ấu trùng tôm
Trong sản xuất tôm giống, khâu ương nuôi ấu trùng rất quan trọng.
Vì vậy, phải áp dụng triệt để các biện pháp phòng ngừa:
Trước lúc ương phải tiêu độc triệt để bể ương, dụng cụ ương, bằng thuốc tiêu độc.
Có thể dùng Chlorine, Formalin hoặc thuốc tím.
Trường hợp tôm bố mẹ có dấu hiệu bệnh lây nhiễm, cần phải tiến hành tiêu độc hoàn toàn bể; cách ly tôm bệnh, dụng cụ chuyên dùng phải cất giữ cẩn thận, không để lây truyền bệnh.
Thức ăn phải đảm bảo chất lượng tốt, sạch, khi cho ăn phải đủ lượng thức ăn, cho ăn nhiều lần, tránh để thừa, lắng bám ở đáy bể.
Quá trình ương phải tiến hành xiphông loại trừ chất thải, cặn bẩn trong bể hàng ngày.
Thay nước và giữ chất lượng nước tốt, ổn định.
Khống chế nhiệt độ thật chặt chẽ, đảm bảo nhiệt độ tương đối ổn định.
Sử dụng một số loại thuốc phòng bệnh sau mỗi lần thay nước.
Một số bệnh và cách chữa trị
Bệnh vi khuẩn hình cung:
Do vi khuẩn hình cung ngoài môi trường xâm nhập ruột, dạ dày và máu của ấu trùng tôm gây cảm nhiễm toàn thân.
Ấu trùng bị bệnh yếu, hoạt động hướng quang yếu, bụng cong, chuyển màu trắng.
Có thể dùng hỗn hợp Furazone và Sulfanilamide để chữa trị, liều lượng dùng 1 – 3 g/m3 nước.
Bệnh vi khuẩn dạng sợi:
Là vi khuẩn thường bám ở mang ấu trùng, trên các phụ bộ khiến cho hoạt động của ấu trùng bị trở ngại, chìm ở đáy rồi chết.
Dùng thuốc tím KMnO4 liều lượng 0,5 ppm để điều trị.
Bệnh gan đục trắng:
Bệnh này do virus cảm nhiễm vào hệ tiêu hóa mà phát bệnh.
Ấu trùng bị bệnh sẽ quay tròn trên mặt nước, hoạt động chậm, yếu.
Gan và đường ruột đục trắng, tỷ lệ chết cao.
Hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho bệnh này mà nên phòng bệnh bằng cách khử trùng nguồn nước nuôi, vệ sinh bể, ao ương và tắm khử trùng tôm bố mẹ trước khi đưa vào sinh sản.
Bệnh tiên mao trùng:
Bệnh này do một vài loại ký sinh trùng (như trùng hình chuông, trùng co tụ, trùng co đơn, trùng nhánh chồng…) bám trên cơ thể ấu trùng tôm.
Khi bị nhiễm bệnh, bề mặt ngoài thân ấu trùng tôm nổi lên từng đám lông xù ra như bông (giống trứng cá bị nấm thủy mi).
Soi kính hiển vi sẽ thấy ký sinh trùng co duỗi như hình quạt xòe; bộ phận bị bám nhiều nhất là mang tôm, khiến tôm bị ách tắc đường thở.
Trước khi cho tôm mẹ mang trứng vào ao để ấp xả tôm con, phải xử lý bằng Mycostatin 30 – 35 gam/m³ trong 2 – 3 giờ; soi kính hiển vi thấy ký sinh trùng bong ra khỏi tôm thì mới thả vào ao ương.
Trong giai đoạn từ khi mới nở đến khi thành tôm con, nếu xuất hiện ký sinh trùng thì xử lý ngâm bằng Mycostatin (35 g/m³ nước) trong một ngày, sau đó dọn vệ sinh rồi thay nước.
Nguồn giống tôm càng xanh sản xuất hiện nay chưa đủ đáp ứng nhu cầu của người nuôi.
Nhiều nơi vẫn phải nhập tôm giống từ Thái Lan, Trung Quốc, nên khó kiểm soát chất lượng, dịch bệnh.
Người nuôi nên chọn những cơ sở, trại có uy tín, để tăng hiệu quả sản xuất, giảm rủi ro.
Có thể bạn quan tâm
Hiện nay hình thức nuôi tôm càng xanh thương phẩm chủ yếu theo dạng quảng canh cải tiến nuôi trong ruộng lúa và bán thâm canh trong các diện tích nhỏ
Không kiểm soát được số lượng thức ăn thừa hay thiếu trong ao nuôi gây ô nhiễm môi trường nước hay khiến tôm suy dinh dưỡng hoặc gây nhiều bệnh tôm càng xanh
Ứng dụng nhiều kỹ thuật mới trong nuôi tôm càng xanh như: sử dụng máy ép sấy trong sản xuất thức ăn, giải pháp bẻ càng trong quá trình nuôi đạt hiệu quả khá cao
Việc sắp xếp và xây dựng bộ gen chất lượng cao đầu tiên trên thế giới về tôm càng xanh (M. rosenbergii) đã được hoàn thành.
Bổ sung chitin trong chế độ ăn của tôm càng canh tôm sẽ có lợi trong việc tăng cường kích thích phản ứng miễn dịch và đề kháng bệnh trắng cơ trắng đuôi