Phải Đặt Lợi Ích Nông Dân Lên Hàng Đầu
Một thực tế đáng quan ngại ngay tại ÐBSCL là trong khi thất thoát sau thu hoạch lúa từ 12-14%, tương đương 635 triệu USD mỗi năm thì chỉ có 3% sản lượng lúa được nông dân bán trực tiếp cho các nhà máy lau bóng/xuất khẩu. Còn lại hầu hết đều "phó thác" cho thương lái. Tuy nhiên, ngay cả nông dân và thương lái cũng phải lệ thuộc vào lực lượng "cò lúa", gạo đang tung hoành tại vựa lúa lớn nhất quốc gia…
"Cò lúa" gạo thao túng thị trường?
Nghiên cứu của các chuyên gia Trường Đại học Cần Thơ và Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Hệ thống Nông nghiệp (thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam) cho thấy: Thương lái là tác nhân trung tâm trong chuỗi giá trị sản xuất lúa gạo khi có tới 93% lượng lúa bán cho tác nhân này. Tuy nhiên, quan hệ của các thương lái với nông dân lỏng lẻo; đặc biệt việc mua bán thông qua "cò lúa" tại địa phương chiếm 55%. Chỉ 4% lượng lúa nông dân sản xuất ra được các nhà máy xay xát thu mua, chủ yếu là các nhà máy này nằm trong vùng sản xuất. Chỉ có 3% sản lượng lúa được bán trực tiếp từ nông dân đến các nhà máy lau bóng/xuất khẩu… Vào thời điểm chính vụ, 75% nông dân bán lúa tươi chưa qua phơi, sấy và 25% bán lúa khô, mặc dù hiện nay Nhà nước có chính sách khuyến khích nông dân bán lúa khô nhằm tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, chi phí đầu tư vào phơi sấy, tạm trữ là rất lớn đối với người trồng lúa nên phải chấp nhận bán lúa tươi mặc dù lợi nhuận sẽ giảm.
ĐBSCL muốn mở rộng được mô hình cánh đồng lớn, đẩy mạnh cơ giới hóa nông nghiệp, giảm thất thoát trong và sau thu hoạch... phải cấp bách xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam.
Cũng theo kết quả nghiên cứu trên, bình quân mỗi thương lái thu mua 113 tấn lúa/tháng từ nông dân. Trong đó, chỉ có 8,3% thương lái là đại diện cho một nhà máy. Tức là phần lớn các thương lái ở đây hoạt động một cách độc lập và không có các ràng buộc cụ thể giữa nhà cung cấp (nông dân) và khách hàng (nhà máy). Một điều dễ nhận thấy, thương lái là tác nhân chính trong chuỗi giá trị, tác động trực tiếp đến hộ sản xuất trong khu vực. Nhưng hình thức tổ chức và quản lý tác nhân này đang rất yếu. Hiện nay, chưa có bất cứ chính sách nào của Nhà nước tác động trực tiếp đến thương lái… Chưa hết, thực tế tại ĐBSCL đang diễn ra tình trạng ngay cả thương lái (lực lượng mà nông dân thường xuyên kêu ép giá, thao túng thị trường) vẫn bị "cò lúa, gạo" chi phối. Hiện có 13% thương lái bán lúa cho nhà máy xay xát trong khu vực, 69% bán gạo nguyên liệu cho nhà máy lau bóng/xuất khẩu và 11% bán gạo thành phẩm cho các hộ bán buôn bán lẻ. Để thực hiện các giao dịch này, có 71,4% thương lái bán thông qua "cò gạo" - môi giới giữa nhà máy và thương lái.
Các chuyên gia cho rằng: Việc phát sinh "cò lúa" và "cò gạo" giúp hệ thống thương lái vận hành "trôi chảy" hơn. Tuy nhiên, nó tạo ra thêm trung gian trong chuỗi giá trị sản xuất lúa gạo và tác động xấu đến hiệu quả kinh tế; làm tăng thêm chi phí được tính vào giá của sản phẩm lúa gạo bán ra…
Thay đổi tiêu chuẩn xuất khẩu gạo
Điều đáng buồn đang diễn ra là nông dân ĐBSCL đang sản xuất hàng chục loại giống khác nhau nhưng thực trạng thương lái thu mua và trộn lẫn các loại gạo đang diễn ra phổ biến. Một ghe lúa thậm chí có thể có 5 – 8 loại giống khác nhau. Việc này ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng lúa gạo Việt Nam trong khi các doanh nghiệp không đủ nguồn lực về tài chính và lưu trữ nên phải phụ thuộc vào kênh tiêu thụ này để thu mua. Đơn vị xuất khẩu hiện nay không chủ động được vùng nguyên liệu, vì thế sản phẩm luôn bị trộn lẫn và không có sự đồng nhất dẫn đến các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam hiện nay vẫn có phẩm chất thấp, giá trị không cao. Các giống gạo đặc sản cung cấp cho tiêu dùng tại các khu vực tiêu thụ không có phẩm chất và giá trị vốn có.
Tại hội nghị về chuỗi giá trị lúa gạo do Bộ NN&PTNT tổ chức tại Cần Thơ ngày 21-11, các chuyên gia trong nước và quốc tế xác định: ĐBSCL muốn mở rộng được mô hình cánh đồng lớn, đẩy mạnh cơ giới hóa nông nghiệp, giảm thất thoát trong và sau thu hoạch… thì phải cấp bách xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam. Có như thế mới thực sự cải thiện, nâng cao thu nhập cho người trồng lúa một cách bền vững. Lúa gạo Việt Nam không có được một thương hiệu rõ ràng. Khách hàng coi gạo Việt Nam có chất lượng kém nhất, kể cả gạo cao cấp 5% tấm hay gạo cấp thấp 25% tấm. Tại các nước xuất khẩu cạnh tranh với Việt Nam như Thái Lan có giống Khaodakmali, Jasmine của Mỹ, hay Basmati của Ấn Độ và Pakistan là những thương hiệu gắn liền với sản xuất của các nước đó và được người tiêu dùng trên toàn thế giới biết đến. Nhưng Việt Nam hiện nay không có một giống lúa chủ lực nào có thương hiệu cho xuất khẩu. 20 năm qua, Việt Nam duy trì tiêu chuẩn gạo xuất khẩu 6,2mm, nhưng giống lúa IR50404 đã có chiều dài trung bình 6,4mm và nhiều nước khác đã duy trì tiêu chuẩn gạo xuất khẩu có chiều dài hạt gạo trung bình 6,8mm. Trong khi đó, hiện nay, giống lúa OM4218 và nhiều loại giống OM khác đang sản xuất ở ĐBSCL đều có hạt dài trung bình 6,8mm. Thực tế, các giống lúa này tuy được xuất khẩu với số lượng chưa nhiều, nhưng đang được kỳ vọng là những giống chủ lực khi nó trở thành tiêu chuẩn xuất khẩu gạo mới, thay thế cho tiêu chuẩn gạo xuất khẩu cũ từ hơn 20 năm trước.
Có thể thấy được một nghịch lý, mặc dù nông dân đang có xu hướng gia tăng sử dụng các giống lúa chất lượng cao vào sản xuất (72% số hộ có sử dụng giống lúa chất lượng cao) nhưng các thương lái trong khu vực chủ yếu thu mua các giống lúa tẻ thường (chiếm hơn 75% trong cơ cấu mua lúa). Có thể giải thích rằng, hiện nay hầu hết các thương lái đều thu mua dựa vào nhu cầu của các doanh nghiệp xuất khẩu trong khu vực, tức là đầu ra của doanh nghiệp quyết định chính đến việc thu mua của thương lái, trong khi nhu cầu xuất khẩu chủ yếu là các giống lúa chất lượng trung bình. Điều này đang làm cho người nông dân sản xuất giống chất lượng cao rất khó tiêu thụ mặc dù được khuyến khích gieo trồng các giống đó.
GS.TS Nguyễn Văn Luật, nguyên Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, nhận định: "Trong chuỗi giá trị lúa gạo hàng hóa, cái gốc đương nhiên là nông dân nhưng họ hiện đang bị thiệt đơn thiệt kép. Do đó, tái cơ cấu nền nông nghiệp, trong đó có nền sản xuất lúa bền vững cần lấy điểm xuất phát, lấy thước đo là mức độ cải thiện đời sống kinh tế - xã hội của người nông dân. Trong chuỗi giá trị, cần bao gồm không chỉ đầu ra xuất khẩu gạo, mà phải cả đầu vào của sản xuất, như: phân bón, thuốc sâu, giống... Làm sao để nông dân mua với giá gần với giá xuất xưởng, hỗ trợ của Nhà nước cho nông dân qua doanh nghiệp không bị cắt xén...
Có thể bạn quan tâm
Ngày 14-11, Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương) cho biết Ủy ban Thương mại quốc tế Mỹ (ITC) vừa ra quyết định cuối cùng về việc tiếp tục áp thuế chống bán phá giá đối với cá tra - ba sa nhập khẩu từ VN sau khi rà soát thuế lần thứ hai đối với mặt hàng này từ tháng 6-2014.
Hiện công ty này đang phân phối nhãn từ Thái Lan cho các hệ thống bán lẻ tại Anh và mong muốn đưa trái nhãn VN vào thị trường này. Tuy nhiên, để xuất khẩu vào Anh nói riêng và châu Âu nói chung thì nhà vườn cần làm theo tiêu chuẩn Global GAP.
An Giang vừa quy hoạch bảo tồn và phát triển cây dược liệu ứng dụng công nghệ cao, kèm theo chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu và chế biến các loại dược liệu tại vùng Thất Sơn.
Như vậy, nếu ước tính hiệu suất sử dụng các loại phân bón trung bình khoảng 45-50%, có nghĩa lượng phân bón bị thất thoát ra môi trường hoặc bị cố định trong đất, cây trồng không sử dụng được chiếm 50-55% (tương đương trên 5 triệu tấn) thì mỗi năm ngành nông nghiệp đã lãng phí khoảng 40-44 nghìn tỷ đồng.
Niên vụ cà phê 2013 – 2014, tỉnh Đắk Lắk đã thu được những thành công nhất định, khi cả năng suất, sản lượng cà phê đều tăng cao, kim ngạch xuất khẩu cũng tăng nhẹ sau 4 năm liên tục sụt giảm. Diện tích cà phê của tỉnh Đắk Lắk đã vượt mốc 203.500 ha, năng suất bình quân mỗi ha xấp xỉ 2,5 tấn, tổng sản lượng cà phê nhân xô trên 460.000 tấn, tăng 50.000 tấn so với niên vụ trước.