Nuôi Ghép Cua Xanh Với Tôm Sú
Năm 2003, các nhà khoa học ngành thuỷ sản đã nghiên cứu thành công và hoàn thiện công nghệ giống cua xanh. Do chủ động nguồn cua giống nhân tạo, nghề nuôi cua xanh đã phát triển mạnh với nhiều hình thức như nuôi ghép với tôm sú, nuôi ghép với cá, nuôi trong hệ sinh thái rừng ngập mặn, nuôi chuyên canh đạt năng suất từ 1,5-2 tấn/ha.
Xin giới thiệu hình thức nuôi ghép cua xanh với tôm sú, đạt năng suất 1 tấn/ha. Mô hình này được áp dụng cho tất cả các tỉnh ven biển trong cả nước.
Điều kiện áp dụng
Môi trường nuôi: Chất đáy ao là bùn cát, độ lún từ 10-15cm. Độ mặn dao động 15-25‰.
Các chỉ tiêu thuỷ hoá: pH =8,0-8,5, nhiệt độ nước 26-300C, NH3-N, NO2, H2S <0,02 mg/lít, oxy hoà tan 6mg/lít. Độ sâu nước:0,8-1,5m.
Diện tích ao nuôi: Từ 0,3-1ha, mỗi ao có 1-2 cống cấp và thoát nước.
Vị trí ao nuôi
Chọn ao ở vùng trung hoặc hạ triều để thuận tiện cho việc cấp thoát nước.
Do ao nuôi thường ở vị trí trung triều nên sẽ rất khó tháo cạn nước để phơi đáy ao diệt tạp, do đó cần tiến hành tẩy dọn ao bằng cách dùng saponin diệt tạp với liều lượng 10-15g/m3, thời gian xử lý 24-36 giờ. Bón vôi để khử chua và diệt tạp với liều lượng 1.000-1.500kg/ha, tuỳ thuộc vào pH của đất và nước. Dùng lưới 2a=1cm, khổ 0,5-0,7m chắn quanh bờ ao để bảo vệ, lưới chắn có góc nghiêng vào trong lòng ao 450 nhằm đảm bảo cua trong ao không thể bò qua được.
Cấp nước vào ao nuôi: Trước khi cấp nước vào ao cần tiến hành kiểm tra cống cấp và thoát nước, dùng lưới 2a=2mm để chắn và bảo vệ không cho địch hại vào ao nuôi. Trong 2 tháng đầu duy trì mức nước ao từ 0,8-1m, sau đó tăng dần nước đạt từ 1-1,4m.
Thả giống
Kích cỡ cua và tôm giống: Cua giống có độ rộng của vỏ đầu ngực (mai cua) đạt 17-20mm, trọng lượng 0,8-1g/con, tôm giống cỡ PL 15 trở lên. Mật độ thả 0,5 con cua/m2 nuôi ghép với 10 con tôm sú/m2.
Thời điểm thả giống: Thả cua trước 45 ngày sau đó mới thả tôm giống.
Quản lý và chăm sóc
Cho ăn: Thức ăn dùng để nuôi cua là cá tạp, nhuyễn thể, giáp xác kích thước nhỏ, thức ăn tổng hợp dạng viên. Tỷ lệ trộn thức ăn cho cua: cá tạp 50-60%, nhuyễn thể 30- 40%, giáp xác 10%. Để đảm bảo cho cua phát triển tốt cần bổ sung thức ăn tổng hợp dạng viên.
Lượng thức ăn cho ăn hằng ngày phụ thuộc vào kích cỡ của cua và tôm, tăng dần trong khi nuôi nhưng tỷ lệ % thức ăn cho ăn so với trọng lượng của cua giảm dần, thường cho ăn 3-10% trọng lượng thân.
Thời gian cho ăn: Nên cho ăn ngày 2 lần, vào lúc 7-9 giờ và 17-18 giờ. Nếu thức ăn dư thừa cần vớt khỏi ao nuôi sau 10 giờ tính từ lúc cho ăn.
Phương pháp cho ăn: Cho cua ăn trên sàng ăn, khoảng cách giữa sàng ăn là 4-7m.
Thay nước: Thay từ 1/3-2/3 nước cũ và cấp nước mới, thay nước 3-5 ngày liên tục trong mỗi kỳ con nước.
Thu hoạch
-Với cua:
Sau 4 tháng nuôi tiến hành thu hoạch cua đực đạt kích cỡ thương phẩm để giảm mật độ. Thu cua bằng cách cho thức ăn vào sàng cho ăn để cua vào ăn, sau đó kéo sàng lên để bắt những con đạt tiêu chuẩn.
-Với tôm:
Sau 2,5 đến 3 tháng nuôi, dùng đăng hình chữ A thu hoạch tôm đạt kích cỡ thương phẩm bằng đó, hom, trong đó, hom đặt cây đèn dầu để dẫn dụ tôm vào.
Bảo quản sản phẩm:
Sau khu thu hoạch, trói cua bằng dây đay hoặc dây chuối. Đối với tôm sú phải bảo quản sống bằng cách sục ôxy.
Có thể bạn quan tâm
Bệnh phân trắng thường xảy ra ở tôm 40-50 ngày tuổi trở lên, mức độ xảy ra nhiều nhất là 70-80 ngày tuổi. Phân trắng xuất hiện nhiều hay ít phụ thuộc vào mật độ nuôi, mức độ của bệnh và số lượng tôm nhiễm bệnh. Mặc dù bệnh không gây tôm chết đồng loạt nhưng làm ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng tôm nuôi.
Tôm sú (Penaeus monodon) có khả năng sống trong các môi trường độ mặn, từ 2 phần ngàn (ppt) đến 45 phần ngàn (2-45 ppt). Tuy nhiên, khi nuôi tôm ở độ mặn quá cao hoặc quá thấp thường có nhiều vấn đề hơn là khi nuôi tôm trong khoảng độ mặn tối ưu cho đặc điểm sinh học của tôm sú (tối ưu là từ 15 đến 25 ppt). Nuôi tôm ở độ mặn cao hơn 30 ppt sẽ dễ làm bùng phát dịch bệnh, đặc biệt các bệnh virus đốm trắng, đầu vàng và vi khuẩn phát sáng. Vì vậy, người nuôi tôm có xu hướng nuôi tôm ở môi trường nước lợ hoặc ngọt nhưng khi nuôi tôm ở nước ngọt các vấn đề thường gặp phải là:
Vi khuẩn là tác nhân thường xuyên có mặt trong ao nuôi, cũng có thể gây nhiều bệnh nguy hiểm khác nhau cho các giai đoạn phát triển của tôm. Một số bệnh do vi khuẩn gây ra ở tôm nuôi như: bệnh đứt râu, bệnh cụt đuôi, hoại chi; bệnh đốm đen, đốm nâu, bệnh phát sáng, bệnh vi khuẩn dạng sợi,...
Từ năm 2000 đến nay, ông Châu Ngọc Tòng, nông dân ấp Trà Teo, xã Hòa Đông (huyện Vĩnh Châu, Sóc Trăng), nuôi tôm sú đều đạt hiệu quả kinh tế cao.
Khoa thủy sản Trường đại học Cần Thơ vừa thử nghiệm thành công trong việc pha nước biển nhân tạo để ươm tôm sú giống. Bằng kỹ thuật này, tôm sú giốngcó tỷ lệ nuôi sống cao hơn nuôi trong nước biển tự nhiên.