Những Lưu Ý Khi Nuôi Sò Huyết
Sò huyết là loại động vật biển có giá trị dinh dưỡng cao, đang có thị trường tiêu thụ rộng lớn. Nuôi sò huyết đầu tư ít vốn, không phải cho ăn, chỉ cần bỏ công quản lý lại thu nhập cao gấp 5-10 lần vốn đầu tư, do đó được nhiều nơi phát triển. Trong đó Bến Tre, Kiên Giang là hai tỉnh có phong trào nuôi sò mạnh nhất cả nước. Năng suất bình quân đạt 60-70 tấn/ha.
Chọn địa điểm
Tốt nhất là đặt ở vùng hạ triều vì ở đó có thời gian đất ngập nước nhiều hơn. Nếu để sò sống ở vùng nước sâu sẽ có thời gian bắt mồi dài hơn, sinh trưởng nhanh hơn, nhưng lại khó quản lý và khai thác. Ở eo vịnh, cửa sông vừa ít sóng gió lại có nước ngọt chảy vào bổ sung thêm muối dinh dưỡng.
Nơi có nền đáy là bùn pha cát mềm (90% là bùn + 10% là cát) lớp bùn đáy không quá 10cm và có màu vàng nâu, vừa tạo điều kiện để sò vùi mình dưới bùn khi cần thiết.
Xây dựng bãi nuôi
- Nếu nuôi đơn giản: Tiến hành đóng cột mốc ở 4 góc làm ranh giới quản lý. Dùng đăng tre hoặc lưới căng xung quanh bãi thành rào chắn không cho sinh vật có hại xâm nhập vào bãi nuôi. Sau đó, dùng cây gỗ chắc chịu được nước đường kính 10-15cm, dài 1,5-2m làm thành cọc đóng thành hàng xung quanh bãi, mỗi cọc cách nhau 1m và đóng sâu 0,50m. Dùng đăng lưới căng theo hàng dọc, chân đăng hoặc lưới cắm sâu dưới bùn 0,20m và cột chặt vào các cọc. Sửa sang lại bãi cho phẳng, không để ứ đọng nước, nhặt hết các tạp vật hại sò. Nếu bãi cứng phải cày bừa cho tơi xốp. Cách nuôi này tuy đầu tư ít song lại không bền vững, hàng năm phải thay cọc, lưới hoặc đăng gây quá tốn kém.
- Nuôi kiên cố: Phải thiết kế bãi nuôi có hình chữ nhật và xây dựng kèm theo các công trình. Bờ bao xung quanh bãi phải đắp chắc chắn, mặt bờ rộng 2-2,5m, đáy bờ 3-3,5m, chiều cao của bờ 1,2-1,5m. Xây dựng thêm mương bao xung quanh phía trong bờ bao. Diện tích mương bằng 15-20% diện tích bãi nuôi. Thủy triều trước khi vào bãi qua mương được lọc lại bùn, cát và các tạp vật khác làm cho nước vào bãi trong sạch. Mương ngoài tác dụng là rào chắn không cho sinh vật có hại xâm nhập vào bãi còn có nhiệm vụ điều chỉnh nhiệt độ trên bãi nuôi.
- Bãi nuôi là nơi sinh sống của sò, bằng phẳng không bị ứ đọng nước. Cao trình mặt bãi phải đủ để điều chỉnh nước khi cần thiết.
- Cống cấp và tháo nước nhằm điều chỉnh lượng nước trong bãi nuôi. Cống làm bằng xi măng, bằng gỗ hoặc bằng cây dừa.
- Phía trước bãi nuôi và đối diện với cửa cống cấp nước xây một bờ ngăn cao 0,6m, bề mặt 0,6m, cách bãi nuôi chừng 1,5m và cách cửa cống 1,5m, mục đích làm phân tán dòng chảy, giảm lưu tốc chảy của nước từ cống cấp vào bãi đảm bảo cho bãi nuôi không bị xói mòn.
Thả giống vào nuôi
Ngoài tự nhiên sò đẻ vào tháng 7-8 đến tháng 11 âm lịch. Từ 5 đến 6 tháng thì có sò con. Theo kinh nghiệm của ngư dân sau khi bằng mắt thường thấy sò, thì từ 10-15 ngày sau đó sẽ vớt được sò con về nuôi. Có hai thời điểm với sò con, lúc thủy triều xuống lộ mặt bãi dùng cào, cào lớp bùn sau đó đem đãi bùn lấy sò con. Nếu vớt lúc thủy triều lên phải chọn thời điểm ít sóng gió và dùng cào, cào lớp bùn và đãi lấy sò con.
Mùa vụ thả sò giống để nuôi từ tháng 3 đến tháng 6 âm lịch. Sò tốt thường có màu sắc trắng hồng không lẫn tạp vật và các sinh vật hại sò.
Nên thả giống vào lúc thủy triều ngập bãi từ 10-12cm để sò có thời gian vùi mình xuống bùn sẽ không bị phơi nắng khi triều kiệt. Không nên thả sò vào lúc triều chảy mạnh vì sò sẽ bị trôi. Rải đều sò trên bãi và ở giữa bãi có thể thả dầy hơn vì sò có khuynh hướng di chuyển ra phía ngoài bãi.
Tùy theo cỡ sò giống, mật độ thả nuôi khác nhau, chẳng hạn như cỡ 400 con/kg thả mật độ từ 850-900 con/1.000m2, cỡ dưới 400-350 con/kg thả mật độ từ 950-1.000 con/1.000m2, cỡ dưới 350-300 con/kg thả mật độ từ 950-1.000 con/1.000m2, cỡ dưới 300-250 con/kg thì thả mật độ từ 1.000-1.100m2.
Quản lý và thu hoạch
Kiểm tra bãi nuôi thường xuyên để kịp thời phát hiện những bất thường xảy ra. Phát hiện những địch hại của sò để tiêu diệt như vẹm, ốc, rong tảo, cua, cá trình, cá đối... Về mùa mưa thường có nước ngọt ở cửa sông đổ vào bãi nuôi, do đó cần đắp đập ngăn nước ngọt.
Thời gian nuôi khoảng 1 năm sò đạt cỡ 60-40 con/kg, lúc đó tiến hành quy hoạch, có thể thu dần sò lớn trước. Phương pháp thu là dùng cào, thời gian thu có thể kéo dài 3-4 tháng.
Có thể bạn quan tâm
Gây giống và nuôi bán nhân tạo sò huyết (Tegillarca granosa) ở Trung Quốc - Phần 1
Gây giống và nuôi bán nhân tạo sò huyết (Tegillarca granosa) ở Trung Quốc - Phần 2
Gây giống và nuôi bán nhân tạo sò huyết (Tegillarca granosa) ở Trung Quốc - Phần 3
Đặc điểm sinh sản, sinh thái của sò huyết - Phần 2
Không có giống thì không thể phát triển nghề nuôi sò được. Hiện nay, tuy việc gây giống nhân tạo đã thành công, nhưng số lượng sò vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất.