Nâng Cao Năng Suất, Chất Lượng Hồ Tiêu Bằng Phân Bón Lâm Thao
Cây tiêu có tên khoa học là: Piper nigrum L, họ hồ tiêu (Piperaceae), bộ Piperales. Ở nước ta, cây tiêu được đưa vào trồng trước hết tại vùng Hà Tiên, sau đó nhanh chóng được nhân rộng ra ở Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và duyên hải Trung Bộ.
1. Tình hình phát triển cây tiêu ở nước ta
Trước những năm 1975, cả nước chỉ có khoảng 500ha hồ tiêu với sản lượng ước chừng 500 tấn. Nhưng từ năm 2003 đến nay Việt Nam trở thành nước sản xuất, xuất khẩu hồ tiêu hàng đầu thế giới (chiếm 35% sản lượng và gần 50% thị phần thế giới).
Năng suất hồ tiêu trung bình cả nước năm 2011 đạt 2,4 tấn tiêu đen/ha, nhưng biến động lớn giữa các vùng trồng tiêu, từ 1,5-5 tấn/ha, cá biệt đạt trên 10 tấn/ha.
Những năm gần đây do tiêu có giá cao, nông dân có khuynh hướng bón phân vô cơ với liều lượng rất cao so với mức khuyến cáo nhưng thường mất cân đối về tỷ lệ đạm – lân - kali, ít quan tâm đến cân đối phân hữu cơ với phân vô cơ đã làm môi trường đất xấu đi.
2. Yêu cầu sinh thái
Cây tiêu ưa điều kiện khí hậu nóng ẩm: Nhiệt độ thích hợp là 25 - 28 độ C, lượng mưa cả năm yêu cầu 1.200 – 2.500mm, trong đó cần có một giai đoạn khô hạn ngắn sau thu hoạch để cây phân hóa mầm và ra hoa đồng loạt. Ẩm độ không khí thích hợp khoảng 70%, ánh sáng tán xạ nhẹ được xem là phù hợp với yêu cầu sinh lý sinh trưởng, phát dục và kéo dài tuổi thọ của cây.
Tiêu có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau như: Đất sét pha cát (Hà Tiên, Phú Quốc), đất đỏ bazan (Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ), đất phù sa bồi (đồng bằng sông Cửu Long), đất xám (Đông Nam Bộ).
Đất trồng tiêu cần có tầng dày 80 -100cm, mạch nước ngầm >2m, kết cấu tơi xốp, thành phần cơ giới từ nhẹ đến trung bình, dễ thấm và thoát nước. Yêu cầu đất có hàm lượng mùn >2%, giàu đạm, hàm lượng kali và magiê khá, khả năng trao đổi cation 20 – 30 meq/100g đất, tỷ lệ C/N cao ở tầng mặt (15 - 25), đất chua nhẹ (pH 5,0 - 6,0).
3. Thời vụ trồng và cơ cấu cây trồng ở các vùng
Hồ tiêu là cây công nghiệp lâu năm được trồng với mật độ dày 1.500-2.500 trụ/ha và là cây chịu thâm canh nhưng lại rất nhạy cảm với sâu bệnh. Để đạt năng suất cao và có vườn tiêu khỏe cần thiết phải bón đầy đủ và cân đối N-P-K-phân hữu cơ. Các nguyên tố dinh dưỡng trung, vi lượng cũng cần thiết đối với năng suất và chất lượng hạt tiêu.
Giống tiêu chủ yếu là: Tiêu sẻ, tiêu Lada và tiêu Ấn Độ.
Thời vụ trồng tiêu có thể xê dịch tùy theo khí hậu của từng địa phương, nhưng nói chung phải trồng khi đất có đủ độ ẩm, chủ động về nước tưới; ở vùng Bắc Trung Bộ: Trồng khoảng tháng 8 - 10; ở vùng duyên hải Trung Bộ: tháng 8 - 9; ở vùng Tây Nguyên: tháng 5 - 7; ở vùng Đông Nam Bộ: tháng 6 - 8; ở vùng đồng bằng Cửu Long: tháng 5 - 8.
Trong thời kỳ kiến thiết cơ bản, người ta thường trồng xen các loại cây đậu đỗ trong vườn tiêu để tăng thu nhập và cải tạo độ phì đất. Cũng có thể thấy tiêu được trồng xen với cà phê, cây ăn quả, hoặc trồng ở các bờ quanh vườn...
Lượng hút dinh dưỡng tính cho đơn vị sản phẩm và nhu cầu dinh dưỡng
- Trong 1kg hạt tiêu khô có chứa 36g N, 8g P2O5, 25g K2O. Giả sử trong quá trình canh tác, toàn bộ thân, cành, lá, rễ và các phụ phế phẩm được hoàn trả cho đất, thì riêng lượng dinh dưỡng lấy đi để tạo năng suất 3-5 tấn hạt tiêu khô/ha sẽ là 108-180kg N, 24-40kg P2O5, 75-125kg K2O và các nguyên tố dinh dưỡng trung vi lương khác.
Khi sử dụng phân đơn để bón, hệ số bón phân của cây tiêu đạt: 50-55% đối với phân đạm, 20-25% đối với phân lân và 45-50% đối với phân kali.
4. Bón phân NPK-S Lâm Thao cho cây hồ tiêu
Trên cơ sở nhu cầu dinh dưỡng như trên, ta sử dụng phân bón như sau:
4.1. Đối với diện tích trồng mới (bón lót)
+ Mật độ trồng: 2.000 cây/ha.
+ Phân chuồng: 6.000 ÷ 8.000 kg/ha.
+ NPK-S5.10.3-8: 600 ÷ 800 kg/ha, hoặc lân nung chảy: 800 ÷ 1.200kg + urê: 40 ÷ 60kg/ha.
4.2. Bón thúc
- Giai đoạn sau thu hoạch (bón phục hồi): NPK-S5.10.3-8: 400 ÷ 450 kg/ha.
- Bón trước khi ra hoa: NPK-S12.5.10-14: 400 ÷ 450 kg/ha.
- Bón khi đậu quả: NPK-S12.5.10-14: 550 ÷ 600 kg/ha.
- Bón nuôi quả: NPK-S12.5.10-14: 550 ÷ 600 kg/ha.
Kỹ thuật bón: Bón theo rãnh, rạch rãnh sâu 5 ÷ 10cm, rải đều phân rồi lấp đất, tạo ẩm.
Chú ý: Không làm đứt hay xây xước rễ.
Rất mong nông dân trồng tiêu sử dụng phân bón NPK-S Lâm Thao cân đối về liều lượng và tỷ lệ như trên để đạt hiệu quả kinh tế cao.
Có thể bạn quan tâm
Ngoài giống tốt, có sức kháng sâu bệnh khá thì phân bón đóng vai trò rất quan trọng. Về mặt khoa học, người ta quy ước bón phân cho vườn tiêu là phải biết cây tiêu lấy đi chất gì, lấy hết bao nhiêu để trả lại chất ấy đủ cho đất thì đến các vụ sau, năm sau mới có năng suất ổn định.
Cây hồ tiêu có nguồn gốc từ tán rừng thưa nên ánh sáng tán xạ nhẹ phù hợp với yêu cầu sinh lý của cây tiêu hơn là trực xạ. Bóng mát sẽ điều tiết sự ra hoa quả, làm cây không ra hoa quả quá độ, do vậy ổn định đuợc năng suất và duy trì được tuổi thọ của vườn tiêu
Vụ tiêu vừa qua, phần lớn các vườn tiêu đều giảm năng suất (năng suất bình quân 2,5 tấn/ha), trong khi đó vườn tiêu của ông Trương Đức Hào ở xã Bàu Lâm (huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu) có năng suất đến 5,5 tấn/ha. Điều đáng quan tâm là nhiều năm nay vườn tiêu của ông Hào luôn cho năng suất ổn định và giá bán cao hơn so với các vườn tiêu khác gần 10%.
Bệnh chết nhanh trên hồ tiêu do nấm Phytophthora capsici gây ra. Bệnh có thể gây hại ở tất cả các bộ phận của cây nhưng nguy hiểm nhất vẫn là vùng cổ rễ. Nấm gây bệnh có nguồn gốc thủy sinh, gặp mưa ẩm ướt kéo dài sẽ phát triển mạnh, ngấm ngầm tấn công và hủy hoại bộ rễ, làm cho việc dẫn truyền nước và dinh dưỡng nuôi cây bị ngừng trệ, khi phát hiện thấy cây bị chết thì thực ra bộ rễ của chúng đã bị nấm gây hại trước đó hàng tháng rồi, vì thế cây tiêu thường bị chết hàng loạt vào cuối mùa mưa đầu mùa khô.
Với diện tích khoảng 11.000 ha trong tổng số 50.000 ha hồ tiêu cả nước, Bình Phước đã trở thành thủ phủ của loại cây này. Những năm gần đây, hồ tiêu mang lại giá trị kinh tế cao cho người nông dân. Tuy nhiên, việc giữ và tăng diện tích hồ tiêu trong tỉnh gặp nhiều thách thức, đặc biệt là bệnh chết nhanh, chết chậm.