Mô Hình Nuôi Sò Huyết Bãi Bùn Ven Sông
Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản Cà Mau thực hiện mô hình trình diễn nuôi sò huyết thương phẩm bãi bùn ven sông.
Mô hình bắt đầu triển khai thực hiện vào tháng 11/2009 và thu hoạch vào tháng 6/2010. Chủ hộ tiếp nhận mô hình do ông Nguyễn Việt Lào ấp Cái Cám, xã Tân Hải, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau làm chủ. Cán bộ phụ trách kỹ thuật chỉ đạo mô hình là kỹ sư Bùi Nhật Phương - phó trưởng phòng Quản lý nguồn lợi và môi trường thủy sản của Chi cục.
Mô hình chọn địa điểm nuôi tại bãi bùn ven sông, mặt đáy bằng phẳng, dòng chảy nhẹ, ít sống gió, chất đất cát pha bùn với tỷ lệ bùn chiếm khoảng 70 - 80%, nơi có thủy triều lên xuống, thời gian phơi bãi 5 - 6 giờ/ngày.
Bãi nuôi được rào bằng lưới mành có kích thước mắt lưới 2 a = 0.5 cm, lưới được cắm sâu dưới mặt đất khoảng 0,4 m, chiều cao từ mặt đáy lên 1 m. Xung quanh cắm trụ, cọc chắn lưới thẳng nghiêng vào bên trong một góc 600, khoảng cách giữa các cọc là 3 m.
Chọn con giống đồng cỡ, khối lượng trung bình 250 – 300 con/kg. Trong quá trình vận chuyển con giống tránh để sò tiếp xúc với nước ngọt đặt biệt là nước mưa, thời gian vận chuyển con giống không quá 6 giờ, sò giống được đựng trong cập đệm hoặc bao bố, để nơi thoáng mát vận chuyển bằng xe hoặc tàu thuyền, thường xuyên tưới nước biển lên các bao đựng sò giống để sò dễ hô hấp.
Thả giống lúc trời mát và thủy triều lên để sò dễ vùi không bị phơi trên bãi, tốt nhất dùng xuồng bơi rãi sò đều trên mặt diện tích nuôi, nên rãi sò phía trong nhiều hơn phía ngoài vì sò có xu hướng di chuyển theo hướng thủy triều rút.
Sò là đối tượng dễ nuôi, ít bệnh, ăn thức ăn tự nhiên không cần cho ăn như các đối tượng nuôi khác. Thường xuyên kiểm tra lưới rào tránh tình trạng lưới bị rách và tóc rào sò sẽ thất thoát ra ngoài, kiểm tra thấy sò bị tình trạng tập trung nhiều về một gốc hoặc phía nào đó ta nên trang sò đều ra khắp diện tích nuôi tránh tình trạng sò tập trung quá dầy chậm lớn và dễ lây bệnh.
Sau thời gian 8 – 9 tháng nuôi kiểm tra thấy sò đạt từ 50 – 60 con/kg thì tiến hành thu hoạch, cào tay hoặc cào máy, phân lô cào đi cào lại nhiều lần để đảm bảo thu hoạch được toàn bộ số sò, áp dụng phương pháp thu cuốn chiếu, thu nhiều ngày để tránh tình trạng sò di chuyển sang những nơi đã thu hoạch rồi, thu hoạch vào mùa thành thục sinh dục, lúc thủy triều lên vì lúc này sò lên trên mặt kiếm ăn thuận tiện cho việc thu hoạch và lúc này sò thảy chất cặn bã trong cơ thể chỉ giữ lại chất dinh dưỡng chất lượng sò cao hơn. Nên thu ngày nào tiêu thụ ngày đó để chất lượng sò tươi sống và đạt trọng lượng tối đa.
Hoạch toán kinh tế:
Lưới rào: 20 cây x 240.000 đồng/cây = 4.800.000 đồng.
Trụ cây tràm: 529 cây x 7.000 đồng/cây = 3.700.000 đồng.
Chòi canh: 2.000.000 đồng.
Công quản lý: 1.200.000 đồng/người/tháng x 7 tháng = 8.400.000 đồng.
Con giống: 3.000 kg x 27.000 đồng/kg = 81.000.000 đồng.
Công vận chuyển: 1.250.000 đồng.
Tổng chi: 101.150.000 đồng.
Thu hoạch: 6.000 kg.
Tổng thu: 6.000 kg x 30.000 đồng/kg = 180.000.000 đồng.
Lợi nhuận: Tổng thu – Tổng chi: 78.850.000 đồng.
Đây là mô hình trình diễn thí điểm đem lại hiệu quả rất khả quan, dễ nuôi, lợi nhuận cao, cần nhân rộng mô hình ra đại trà cho bà con thực hiện.
Có thể bạn quan tâm
Gây giống và nuôi bán nhân tạo sò huyết (Tegillarca granosa) ở Trung Quốc - Phần 1
Gây giống và nuôi bán nhân tạo sò huyết (Tegillarca granosa) ở Trung Quốc - Phần 2
Gây giống và nuôi bán nhân tạo sò huyết (Tegillarca granosa) ở Trung Quốc - Phần 3
Đặc điểm sinh sản, sinh thái của sò huyết - Phần 2
Không có giống thì không thể phát triển nghề nuôi sò được. Hiện nay, tuy việc gây giống nhân tạo đã thành công, nhưng số lượng sò vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất.