Lúa DQ 11 lên Thái Nguyên
Giống lúa DQ 11 sẽ vào cơ cấu giống chính thức của Thái Nguyên trong vụ tới.
Vụ xuân 2015, Trung tâm Giống cây trồng Thái Nguyên đưa DQ 11 vào trồng thử nghiệm với quy mô nhỏ.
Bất ngờ với sự thích ứng của giống, vụ mùa 2015 trung tâm đã phối hợp mở rộng diện tích ra nhiều địa phương.
Bà Dương Ngọc Huê, Trung tâm Giống cây trồng Thái Nguyên cho biết, DQ11 có chiều cao cây từ 100 - 110 cm, góc lá hẹp, gọn cây, khả năng chống đổ cao; đẻ nhánh khá, tập trung, lá đòng đứng, mào xanh, bản lá rộng vừa phải.
Lúa trỗ tập trung, thoát cổ bông, số bông hữu hiệu, số hạt chắc trên bông đạt cao. Hình thức hạt thon nhỏ, vàng sáng, xếp sít, khối lượng 1.000 hạt đạt 22 gram.
Ông Hoàng Văn Dương, xóm Làng Phan, xã Cổ Lũng, huyện Phú Lương cho biết, gia đình ông có 6 sào ruộng, trong vụ mùa này, cả 6 sào được đưa vào cấy toàn bộ bằng giống DQ 11. Tất cả những nội dung giới thiệu về giống qua tập huấn đã được cây lúa chứng minh trên thực tế.
Được biết, Sở NN-PTNT Thái Nguyên đang xây dựng cơ chế chính sách để hỗ trợ giá giống cho người dân tham gia trồng DQ 11 trong thời gian tới. Hiện nhóm giống lúa thuần đang được tỉnh này hỗ trợ giá với mức 20.000 đ/sào.
Ông Dương khẳng định, năng suất thực tế của cây lúa còn cao hơn đánh giá có phần khiêm tốn của cán bộ xây dựng mô hình.
Cụ thể, số hạt chắc trên tổng số hạt của một bông lúa được báo cáo là 185/218 hạt nhưng ông đã thống kê trong nhiều ngày thì thấy trung bình phải đạt 255 hạt chắc trên tổng số 280 hạt/bông.
Nhiều bông đạt 302 hạt chắc trên tổng số 334 hạt.
Chắc chắn, năng suất ước tính của cán bộ là 69 tạ/ha sẽ còn có khoảng cách so với năng suất thực của giống này. Ông Dương nhẩm tính thì năng suất thực của DQ11 vụ mùa này sẽ đạt 75 - 80 tạ/ha.
Cũng tại xóm Làng Phan, bà Phó Thị Tuyết cấy 7 sào DQ 11. Bà Tuyết cho biết, ngay trong vụ đầu thử nghiệm, DQ 11 đã được áp dụng phương pháp canh tác lúa cải tiến SRI.
Theo đó, lúa được cấy mạ non, 1 dảnh/khóm, được làm cỏ sục bùn.
Mỗi sào lúa chỉ sử dụng hết 3 kg đạm, 7 kg kali, 20 kg lân và 150 kg phân chuồng.
Cánh đồng Làng Phan mấy năm vừa qua liên tục bị sâu cuốn lá, sâu đục thân và dầy nâu hoành hành. Vụ mùa này, những diện tích DQ 11 như được miễn nhiễm với các loại sâu bệnh trên nên người dân sử dụng rất ít thuốc BVTV. Bà Tuyết khẳng định sẽ tìm mua giống DQ 11 để SX trong các vụ gieo cấy tiếp theo.
Ông Hà Văn Xuân, GĐ Trung tâm Giống cây trồng Thái Nguyên cho biết, hầu hết người dân tham gia trồng thử DQ 11 trong 3 vụ vừa qua tại Thái Nguyên đều mong muốn tiếp tục SX loại giống trên. DQ 11 chinh phục người nông dân ở 3 lý do là năng suất, tính thuần hóa cao, thời gian sinh trưởng ngắn phù hợp với cơ cấu mùa vụ và đặc biệt là chất lượng gạo ngon.
à ở đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung bộ.
Giống lúa DQ 11 sẽ vào cơ cấu giống chính thức của Thái Nguyên trong vụ tới.
Vụ xuân 2015, Trung tâm Giống cây trồng Thái Nguyên đưa DQ 11 vào trồng thử nghiệm với quy mô nhỏ. Bất ngờ với sự thích ứng của giống, vụ mùa 2015 trung tâm đã phối hợp mở rộng diện tích ra nhiều địa phương.
Bà Dương Ngọc Huê, Trung tâm Giống cây trồng Thái Nguyên cho biết, DQ11 có chiều cao cây từ 100 - 110 cm, góc lá hẹp, gọn cây, khả năng chống đổ cao; đẻ nhánh khá, tập trung, lá đòng đứng, mào xanh, bản lá rộng vừa phải.
Lúa trỗ tập trung, thoát cổ bông, số bông hữu hiệu, số hạt chắc trên bông đạt cao. Hình thức hạt thon nhỏ, vàng sáng, xếp sít, khối lượng 1.000 hạt đạt 22 gram.
Ông Hoàng Văn Dương, xóm Làng Phan, xã Cổ Lũng, huyện Phú Lương cho biết, gia đình ông có 6 sào ruộng, trong vụ mùa này, cả 6 sào được đưa vào cấy toàn bộ bằng giống DQ 11. Tất cả những nội dung giới thiệu về giống qua tập huấn đã được cây lúa chứng minh trên thực tế.
Được biết, Sở NN-PTNT Thái Nguyên đang xây dựng cơ chế chính sách để hỗ trợ giá giống cho người dân tham gia trồng DQ 11 trong thời gian tới. Hiện nhóm giống lúa thuần đang được tỉnh này hỗ trợ giá với mức 20.000 đ/sào.
Ông Dương khẳng định, năng suất thực tế của cây lúa còn cao hơn đánh giá có phần khiêm tốn của cán bộ xây dựng mô hình.
Cụ thể, số hạt chắc trên tổng số hạt của một bông lúa được báo cáo là 185/218 hạt nhưng ông đã thống kê trong nhiều ngày thì thấy trung bình phải đạt 255 hạt chắc trên tổng số 280 hạt/bông. Nhiều bông đạt 302 hạt chắc trên tổng số 334 hạt.
Chắc chắn, năng suất ước tính của cán bộ là 69 tạ/ha sẽ còn có khoảng cách so với năng suất thực của giống này. Ông Dương nhẩm tính thì năng suất thực của DQ11 vụ mùa này sẽ đạt 75 - 80 tạ/ha.
Cũng tại xóm Làng Phan, bà Phó Thị Tuyết cấy 7 sào DQ 11. Bà Tuyết cho biết, ngay trong vụ đầu thử nghiệm, DQ 11 đã được áp dụng phương pháp canh tác lúa cải tiến SRI. Theo đó, lúa được cấy mạ non, 1 dảnh/khóm, được làm cỏ sục bùn. Mỗi sào lúa chỉ sử dụng hết 3 kg đạm, 7 kg kali, 20 kg lân và 150 kg phân chuồng.
Cánh đồng Làng Phan mấy năm vừa qua liên tục bị sâu cuốn lá, sâu đục thân và dầy nâu hoành hành. Vụ mùa này, những diện tích DQ 11 như được miễn nhiễm với các loại sâu bệnh trên nên người dân sử dụng rất ít thuốc BVTV. Bà Tuyết khẳng định sẽ tìm mua giống DQ 11 để SX trong các vụ gieo cấy tiếp theo.
Ông Hà Văn Xuân, GĐ Trung tâm Giống cây trồng Thái Nguyên cho biết, hầu hết người dân tham gia trồng thử DQ 11 trong 3 vụ vừa qua tại Thái Nguyên đều mong muốn tiếp tục SX loại giống trên.
DQ 11 chinh phục người nông dân ở 3 lý do là năng suất, tính thuần hóa cao, thời gian sinh trưởng ngắn phù hợp với cơ cấu mùa vụ và đặc biệt là chất lượng gạo ngon.
Có thể bạn quan tâm
Trước tình hình hạn hán gay gắt xảy ra trên diện rộng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống của người dân, vừa qua, UBND tỉnh đã tổ chức hội nghị bàn biện pháp chống hạn, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do thời tiết gây ra.
Những ngày này rất nhiều ngư dân ở các xã vùng bãi ngang ven biển huyện Kỳ Anh, Lộc Hà, Thạch Hà, Nghi Xuân, Cẩm Xuyên (thuộc tỉnh Hà Tĩnh) đang được mùa sứa biển, giá thành khá cao, mang lại nguồn thu nhập đáng kể...
Con banh lông là loại hải sản còn ít người biết đến. Nhìn bề ngoài banh lông có hình dạng tròn như trái banh loại nhỏ, sống vùi sâu dưới lớp bùn. Lâu nay hầu như ngư dân ít khai thác loại hải sản này.
Nhiều năm trở lại đây, nuôi tôm trên cát ở vùng ven biển tỉnh Quảng Bình phát triển khá mạnh với diện tích tăng lên mỗi năm. Tuy nhiên, vấn đề quy hoạch vùng nuôi mang tính chiến lược vẫn còn nhiều hạn chế và việc nuôi tôm trên cát phát triển manh mún, tự phát. Vì vậy, để hướng đến mục tiêu phát triển nuôi tôm theo hướng bền vững, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm thì việc tháo gỡ những khó khăn và mở ra một hướng đi mới cho nghề nuôi tôm là điều cần thiết.
Trên địa bàn huyện Bảo Lâm (Lâm Đồng) hiện có 27.300ha cà phê. Nhận thấy nhu cầu rất lớn về cây giống phục vụ cho Chương trình tái canh cà phê, ông Bùi Đình Thám (thôn 12, xã Lộc Thành) đã mạnh dạn dành 2.000m2 đất, trong tổng số 4.000m2 đất vườn nhà, để sản xuất cây cà phê giống cao sản, cung ứng cho thị trường.