Kỹ Thuật Xử Lý Nước Ao Nuôi Cá Rô Phi Bằng Rong Biển

Với mật độ rong câu thả khác nhau, khả năng hấp thụ các chất vô cơ hoà tan như cũng khác nhau. Mật độ rong câu thả 300 gam/m2 cho thấy hiệu quả hấp thụ các chất dinh dưỡng vô cơ hoà tan là cao nhất.
Với sự giúp đỡ của Quỹ môi trường toàn cầu (GEF/SGP) và Sở Khoa học Công nghệ Phú Yên, dự án “Góp phần bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học vùng ven biển tỉnh Phú Yên thông qua việc xây dựng mô hình xử lý nước thải từ các ao nuôi tôm thâm canh bằng phương pháp sinh học” được thực hiện nhằm xây dựng các mô hình xử lý nước thải trong các trang trại nuôi tôm với việc sử dụng cá rô phi và rong biển.
Trong khuôn khổ dự án, nhóm nghiên cứu Viện Nghiên cứu NTTS I đã kết hợp với Phòng kinh tế huyện Đông Hoà, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Phú Yên, Trung tâm khuyến ngư Phú Yên đã thực hiện thành công thí nghiệm “nghiên cứu xử lý nước thải từ các ao nuôi tôm thâm canh bằng cá rô phi và rong biển” nhằm xác định khả năng sử dụng các chất dinh dưỡng dư thừa trong các trang trại nuôi tôm cũng như mật độ cá rô phi và rong biển sử dụng. Địa điểm nghiên cứu tại xã Hoà Hiệp Nam, huyện Đông Hoà, Phú Yên.
Qua quá trình thử nghiệm về ảnh hưởng của các mật độ cá rô phi và rong biển khác nhau tới chất lượng nước được syphon từ ao nuôi thương phẩm cho thấy: Chất lượng nước trong bể không thả cá rô phi và rong câu luôn có sự biến động lớn, đặc biệt thể hiện qua các thông số như TAN,TN, TP, chlorophyll-a, độ trong. Hơn nữa, một số các thông số dinh dưỡng như NO3, TP, BOD5 trong bể cũng luôn cao hơn so với các bể có thả cá rô phi và rong biển. Chất lượng nước trong các bể có thả cá và rong biển nhìn chung ổn định hơn.
Đối với các bể thả cá rô phi khác nhau cho thấy sự biến động của các thông số môi trường cũng khác nhau. Qua các thông số dinh dưỡng như TAN, TN, TP cho thấy với mật độ thả cá 3, 4 con/m2 khả năng hấp thụ các chất dinh dưỡng dư thừa trong nước thải của các ao nuôi tôm thương phẩm là cao nhất.
Với mật độ rong câu thả khác nhau, khả năng hấp thụ các chất vô cơ hoà tan như cũng khác nhau. Mật độ rong câu thả 300 gam/m2 cho thấy hiệu quả hấp thụ các chất dinh dưỡng vô cơ hoà tan là cao nhất.
Qua thí nghiệm, nhóm nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản I đã đưa ra đề xuất mật độ cá và rong câu sử dụng cho các mô hình thử nghiệm ngoài thực địa là: Cá rô phi 3 con/m2 và rong câu 300 gram/m2 cho mô hình trang trại nuôi tôm có các ao xử lý nước thải riêng biệt và cá rô phi 4 con/m2 tính theo diện tích đăng lưới trong các ao nuôi tôm có cắm các giai thả cá rô phi bên trong.
Có thể bạn quan tâm

Từ xưa nghề nuôi cá thường gặp một số người bán cá con, đong đếm gian lận. Ngày nay khi chuyển sang kinh tế thị trường, việc sản xuất mua bán hàng giả đã và đang xuất hiện ở nhiều vùng.

Năm 2011, Trung tâm Khuyến nông Hải Dương đã triển khai mô hình nuôi ghép cá rô phi đơn tính theo quy trình VietGAP tại 4 điểm: xã Tái Sơn, Quang Phục - huyện Tứ Kỳ, xã An Đức - huyện Ninh Giang, xã Phú Điền - huyện Nam Sách. Quy mô của mô hình: 2,0 ha và 6 hộ tham gia, mật độ nuôi 2 con/m2.

Ao nuôi có diện tích 3.000-10.000m2. Độ sâu 1,5-2,5m nước. Đáy ao ít bùn, pH đất 6,5-8,5, có nguồn cấp và thoát nước tốt, có bờ vững chắc, có cống cấp và thoát nước.

Đặc điểm kỹ thuật trong thức ăn của cá rô phi phụ thuộc vào nhu cầu dinh dưỡng trong từng điều kiện nuôi. Cũng giống như các loại cá khác, cá rô phi cũng cần 10 loại axit amin thiết yếu, chúng tiêu hóa cácbon hyđrát tốt hơn cá chép và cá trê phi. Việc cung cấp nhiều loại cácbon hyđrát và lipit có tác dụng tăng hiệu quả của protein trong chế độ ăn, với mức protein chiếm 18 – 22%.

Các hệ thống Biofloc tạo điều kiện cho việc sản xuất cá rô phi chuyên sâu hơn. Loài cá rô phi này thích nghi với các điều kiện trong các hệ thống biofloc và phát triển tốt bằng cách sử dụng biofloc như một nguồn thức ăn. Việc tái chế thức ăn và giảm thiểu trao đổi nước là những đóng góp quan trọng cho nền kinh tế sản xuất cá rô phi. Sự hiểu biết hệ thống biofloc, giám sát và phản ứng nhanh với những diễn biến tiêu cực cũng thực sự cần thiết cho việc nuôi trồng thành công