Kỹ Thuật Nuôi Cá Lóc Công Nghiệp Trong Vèo Lưới
Đến thăm trang trại của chị Phan Thị Vân ở ấp 3 xã Thạnh Trị, huyện Đình Đại, nằm bên dòng Ba Lai hiền hòa vào những ngày cuối tháng 7 đã thật sự thu hút tôi bởi màu xanh của cây lá mà trước đó vài năm là một vùng đất cằn cổi không trồng được gì bởi nước mặn.
Lối vào đã rợp bóng mát của hàng cây so đủa mà chị trồng để cải tạo đất và lấy lá để nuôi dê. Nhưng điều làm tôi thật sự chú ý lại là những vèo lưới lớn, nhỏ đủ cở được giăng dưới những ao mà trước đây là nơi nuôi cá lóc công nghiệp.
Và khi bắt chuyện tôi mới biết đó là những vèo đang nuôi cá lóc chứ không phải là những vèo ươm cá giống như các trại cá khác.
Nuôi cá lóc công nghiệp trong vèo, một mô hình thật lạ và nó có lợi gì hơn so với trong ao, trong hầm? Nhớ lại 3 năm trước, năm 2003 chị Vân bắt tay vào nghề nuôi thủy sản nước ngọt với nhiều loại như: Rô phi, Điêu hồng, Rô đồng, cá lóc, cá sấu, ba ba… nhưng đối tượng được chị chọn nuôi chủ lực để tập trung đầu tư chính là con cá lóc.
Năm 2004, chị Vân bắt tay vào nuôi thử nghiệm cá lóc môi trề có nguồn gốc từ An Giang và Đồng Tháp. Bước đầu gian nan và gặp không ít khó khăn do chưa có kinh nghiệm nên cá hao hụt nhiều và thường hay mắc bệnh. Trầy trật mãi cuối cùng chị cũng gặt hái được thành công.
Vụ nuôi đầu tiên, 2 ao cá lóc cho sản lượng hơn 20 tấn trị giá trên 400 triệu đồng, trừ hết chi phí chị lãi được trên 100 triệu đồng.
Thừa thắng xông lên, năm 2005, chị Vân tăng lên 4 ao nuôi với diện tích hơn 10.000m2, với lượng cá giống thả nuôi trên 300 ngàn con.
Chị Vân cho biết: nuôi cá lóc công nghiệp không khó lắm, điều quan trọng là yếu tố con giống, nguồn nước, thức ăn và phòng trị bệnh; nếu mua con giống không đồng đều, cá bị xây xát, có lượng cá lóc đồng pha trộn thì sẽ bị hao hụt nhiều hoặc chậm lớn.
Năm 2005, sau 6 tháng nuôi, chị Vân lại trúng đậm, trọng lượng bình quân mỗi con đạt trên 1kg, sản lượng của 4 ao nuôi đạt 57 tấn, giá bán bình quân 18.000đồng/kg, chị đã thu về trên 1 tỉ đồng, lãi 270 trịêu đồng tương đương với thực lãi 1 ha mặt nước nuôi tôm sú thâm canh, nhưng mức độ thiệt hại và rủi ro không đáng kể.
Tuy liên tục thắng lợi nhưng chị vẫn băng khoăn về con giống hao hụt, chậm lớn và kích cỡ không đều, bị tư thương ép giá làm chị trăn trở mãi, thôi thúc chị đến tận An giang, Đồng Tháp để học hỏi.
Năm 2006 này, chị quyết định ứng dụng mô hình nuôi cá lóc công nghiệp trong vèo lưới, trong ao đất 2000m2 trước đây, chị cho đặt nhiều vèo lưới theo độ tuổi của cá bao gồm vèo ươm, vèo nuôi cá tăng trưởng và vèo nuôi cá thương phẩm. Tuỳ theo độ tuổi của cá mà mật độ mỗi vèo khác nhau.
Vèo nuôi cá thương phẩm với mật độ là 50 con/m2. Vèo được xây dựng hình vuông hoặc hình chữ nhựt, đáy vèo đặt cách đáy ao khoảng 5 tấc, độ sâu nước trong vèo phải đạt từ 2,5m trở lên.
Chị Vân cho biết: nuôi cá lóc trong vèo có nhiều ưu điểm như mật độ nuôi cao để có sản lượng lớn, thức ăn được tập trung, cá không bị cọ sát đáy ao hoặc không chui được xuống bùn nên ít bị xây xát, cá tập trung ăn và ngủ rồi lại ăn, ít nhiễm bịnh nên tỉ lệ hao hụt thấp và nhất là việc xử lý thuốc phòng trị bịnh cho cá thuận lợi và ít tốn kém hơn trong ao đất. Đặc điểm cá nuôi trong vèo lưới tăng trọng nhanh và kích cỡ đồng đều.
Gía trị thương phẩm cao hơn cá thả lan. Đồng thời, bên ngoài vèo lưới thả thêm các loại cá ăn tạp nhằm cải tạo ao, tận dụng thức ăn thừa, đây cũng là nguồn thu không nhỏ.
Tâm sự với chúng tôi, chị cho biết toàn bộ lượng cá lóc đang nuôi trong các vèo lưới hơn 117 ngàn con đều là cá giống được chị cho sinh sản và ươm nuôi tại các ao nuôi của chị từ 180 con cá lóc bố mẹ đã được tuyển chọn, nuôi dưỡng cho đẻ.
Với những con cá lóc bố mẹ có trọng lượng mỗi con từ 3 đến 4 kg cho đẻ trứng trong các ổ nhân tạo, sau khi cá đẻ, trứng được vớt lên ấp nở rồi ươm lên cá giống. Tuy tỉ lệ ươm cá giống chỉ đạt hơn 5%, nhưng những gì thành công bước đầu cũng đã mở ra triển vọng cho chị và ngưới nuôi trong tỉnh.
Việc thành công nuôi cá lóc trong vèo lưới của chị Vân làm tôi nhớ lại những thử nghiệm của anh Lê văn Nhỏ ở ấp 2 xã Phú Long, huyện Bình Đại, cũng nuôi cá lóc trong vèo lưới với qui mô nhỏ hơn, mỗi vèo lưới chỉ 30m2 ( mật độ 100con/m2), cũng bằng thức ăn cá biển xay. Sau 4 tháng nuôi đạt trọng lượng bình quân 700g/con, thu được 2,5 tấn, trừ chi phí anh Lê văn Nhỏ còn lãi 26 triệu đồng và lượng cá nuôi xen ngoài ao đất.
Tương tự chú Nguyễn văn Long ấp Tân Hưng xã Hưng Khánh Trung, huyện Chợ Lách, năm 2005 cũng đã tận dụng mương vườn nuôi cá lóc trong vèo lưới với qui mô nhỏ cũng đã có lãi. Điều này, cho thấy đây là mô hình có thể nhân rộng và phát triển qui mô nuôi theo khả năng của từng hộ gia đình.
Vẫn là người đi dầu trong nghề nuôi cá lóc thương phẩm thâm canh ở Bến tre, chị Vân lại một lần nữa minh chứng cho sự nhạy bén, năng động trong phát triển kinh tế và tinh thần lao động sáng tạo trong sản xuất, chị cho biết, mới đây chị vừa thu hoạch ao cá lóc bông, sản lượng 13 tấn và trong tháng 8 này sẽ thu tiếp một ao cá lóc bông ước sản lượng khoảng 25 tấn và cũng vừa thả nuôi thêm một ao cá lóc bông nữa.
Có thể nói, trong quá trình chuyển dịch kinh tế thủy sản vùng nuớc ngọt ở Bến Tre, nhiều mô hình nuôi thuỷ sản đã đem lại hiệu quả cho người nông dân, trong đó mô hình nuôi cá lóc công nghiệp thâm canh trong vèo lưới của chị Vân đã mở ra cho Tỉnh một tiềm năng mặt nước ở vùng nước ngọt và nhất là hai bên dòng Ba Lai một nghề nuôi không thua gì con tôm sú miệt biển.
Có thể bạn quan tâm
Cũng giống như ương nuôi các loài cá bột khác, trước khi thả cá phải tẩy dọn ao sạch, gây nuôi thức ăn tự nhiên sẵn trong ao. Mật độ nuôi 5 - 10 vạn/666m2, thông thường là 6 - 7 vạn. Trong 7 - 8 ngày đầu chưa cần cho ăn, sau đó vừa cho ăn vừa bón phân, mỗi vạn cá bột cho ăn 3 - 4kg tảo trần, nuôi như vậy 18 - 20 ngày khi toàn thân cá biến thành màu vàng bắt đầu xuất hiện vảy, sau đó biến thành màu đen, thân dài 3 - 6 cm, tỉ lệ sống 60 - 65%.
Nuôi cá lóc thịt trong mùng lưới (vèo) xuất hiện ngẫu nhiên tại vùng lũ những năm gần đây. Người dân nuôi cá lóc đã nghĩ đến dùng lưới thưa để tiện việc quản lý và cho cá ăn nhằm hạn chế thiệt hại.
Căn cứ vào tính ăn của cá lóc có thể nuôi ghép với cá nuôi như cá mè, trôi, chép, trắm cỏ, rô phi, diếc để khống chế mật độ của những loài cá tạp và những cá sinh đẻ nhiều như cá rô phi, cá diếc nhằm đảm bảo thức ăn cho các loài cá kinh tế chủ yếu, cải tạo và nâng cao sức sản xuất các vùng nước. Tuy vậy, khi nuôi, cần tính cẩn trọng chú ý tỉ lệ, mật độ, kích cỡ cá thả.
Thị trường xuất khẩu cá tra, ba sa càng sôi động, chính là động lực thúc đẩy người chăn nuôi đầu tư mạnh, khiến diện tích các ao, hầm và mặt nước sông ở các tỉnh An Giang và Đồng Tháp tăng rất đang kể trong thời gian gần đây. Bên cạnh hai loại cá tra, ba sa, ở ĐBSCL còn có một loại cá có chất lượng thịt rất ngon được người tiêu dùng trong nước ưa chuộng và hy vọng có ngày được góp mặt với bè bạn năm châu, đó là cá bông. Để giảm tỉ lệ hao hụt trong chăn nuôi và chất lượng thịt ngon đáp ứng yêu cầu thị trường, chọn con giống là khâu quan trọng đối với người nuôi.
Cá quả thường gặp và phân bố rộng có 2 loài là : Ophiocephalus maculatus và Ophiocephalus arbus, nhưng đối tượng nuôi quan trọng nhất là loài O.maculatus thuộc Bộ cá quả, họ cá quả, giống cá quả.