Kiểm soát vi khuẩn trong nuôi tôm - Phần 1
Hệ thống nuôi trồng loài Artemina có thể là nguồn lây nhiễm vi khuẩn chính.Việc thu hẹp phạm vi từ thay đổi thành phần loài vi khuẩn cho đến việc khử khuẩn để diệt phẩy khuẩn.
Có lẽ vấn đề ảnh hưởng đến các trại giống nhiều nhất là tỷ lệ chết cao của tôm khi nuôi tôm ở giai đoạn đầu.Thuật ngữ “hội chứng zoeae” được đặt ra để mô tả giai đoạn nhiễm bệnh của ấu trùng.
Thông thường, các loài động vật không lột xác từ giai đoạn zoeae 1 lên zoeae 2, thì khả năng tử vong rất cao.
Các dạng vi khuẩn phẩy đều được đề cập đến trong quá trình này.
Khó khăn cho người quản lý ương tôm là phải xác định được lỗ hỏng an toàn sinh học và làm thế nào để áp dụng nó mà không cần tạo ra một môi trường sản xuất đã được sử dụng nhằm chỉ ra các vấn đề khác có thể dễ dàng xảy ra.
Mục đích là để kiểm soát vi khuẩn mà không tạo ra khe hở cho mầm bệnh xen vào.
Vi khuẩn phổ biến
Điều quan trọng là phải hiểu rằng vi khuẩn có mặt khắp nơi.
Chúng ta có thể sống hay không tất cả đều phụ thuộc vào chúng.Vi khuẩn rất quan trọng cho việc cân bằng sinh thái và tái chế chất dinh dưỡng, chúng có vô số vai trò quan trọng khác mà chúng ta chỉ mới bắt đầu hiểu được.
Đa số các loài vi khuẩn đều thuộc dạng lành tính, trong khi một số có thể tác động tiêu cực đến các loài động vật dễ bị ảnh hưởng bởi chúng vì nhiều lý do, trong đó sự ảnh hưởng của trạng thái căng thẳng thường là yếu tố quan trọng.
Chỉ có một số rất ít mầm bệnh là tác nhân gây bệnh chính trên động vật.Hầu hết các vấn đề ảnh hưởng đến trại giống xuất phát từ các loài vi khuẩn không phải là tác nhân gây bệnh cơ hội.
Việc nhận ra đã chú ý quá nhiều vào phẩy khuẩn trong khi nhiều loài vi khuẩn khác vẫn có thể( và làm) gây ra những vấn đề nguy hại khác cũng quan trọng.
Không nên tập trung vào việc loại bỏ toàn bộ vi khuẩn mà thay vào đó nên nhắm vào các khu vực sản xuất nơi có thể giảm thiểu toàn bộ vi khuẩn.
Kết nối các giai đoạn sản xuất
Như với bất kỳ quy trình nông nghiệp nào, giai đoạn sản xuất trong việc nuôi trồng thủy sản được liên kết và nối lại với nhau.
Cá giống được bán với số lượng rất lớn về mặt thương mại đã trở thành nguồn trứng và con nâu,và lần lượt chúng lại được bán để trở thành nguồn dự trữ hậu ấu trùng tôm cho hệ thống sản xuất nuôi thịt theo quy mô thương mại.
Đàn bố mẹ đến từ nhiều nguồn khác nhau.Đa số - đặc biệt là loài tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương - đến từ các công ty kinh doanh thương mại bán các loài động vật được chọn di truyền, thường là loại tôm sạch mầm bệnh, những tác nhân gây bệnh đặc trưng đã được Tổ chức Thú y Thế giới đề cập tới thì không nên xuất hiện.
Nguồn lấy tôm sú thì như nhau,dù vậy cách sử dụng đàn bố mẹ hoang dã cần được lưu ý khi nuôi tại các trại tôm sú.
Qui trình thông thường cho cơ sở nuôi tôm trưởng thành
Việc sử dụng động vật không mầm bệnh đã có tác động lớn đến nghề nuôi tôm trên toàn cầu, mặc dù đôi lúc đó không phải là nguồn giải quyết mọi vấn đề như ta tưởng.
Có nhiều lý do cho việc này.Bất kể nguồn gốc của các loài động vật, cơ sở nuôi động vật trưởng thành thì tất cả vẫn làm những điều giống nhau.
Bên cạnh nỗ lực giảm thiểu lượng vi khuẩn vào các hệ thống nuôi loài trưởng thành, nên tập trung vào việc kiểm soát nguy cơ lây truyền theo chiều ngang trong suốt quá trình sản xuất.
Lấy đẻ trứng hàng loạt là định mức, ví dụ, sinh sản cá nhân cung cấp kiểm soát tốt hơn.
Khi con cái đẻ trứng, việc vi khuẩn bám vào nó và xuất hiện ở chất lỏng trong buồng trứng và phân là con đường dễ dàng cho vi khuẩn bám lên bề mặt trứng.
Con cái nên được rửa sạch trong khoảng thời gian ngắn bằng chất khử trùng như dung dịch formalin trước khi đưa vào bể đẻ nhằm giảm lượng vi khuẩn bên ngoài.
Sau khi sinh con cái nên được chuyển ra bể đẻ càng sớm càng tốt – điều đó sẽ rất dễ dàng khi động vật được sinh ra riêng lẻ.
Nên đi thu gom trứng và rửa bằng nước sạch nhiều lần và bằng dung dịch khử trùng có thể dùng dung dịch formalin,dung dịch sát trùng idophor hoặc các hợp chất khác mà trước đó đã cho thấy hiệu quả trong việc làm giảm lượng vi khuẩn kèm theo.
Sau khi trứng nở thành ấu trùng, ấu trùng khỏe mạnh sẽ được thu gom bởi tính thích ánh sáng của chúng và thả vào trong bể ấp.Trước khi cho vào bể, ấu trùng nên được rửa sạch theo cách giống như khi khử trùng bề mặt trứng.
Những quy định này được đặt ra nhằm làm giảm lượng vi khuẩn bám trên bề mặt ngoài.
Không được loại bỏ vi khuẩn có trong trứng theo cách này.
Nếu xác định đây là mối quan ngại, thì đàn bố mẹ nên được điều trị trong hệ thống sản xuất sạch bằng thuốc kháng sinh thích hợp và khi cho ăn thức ăn không được có mầm bệnh.
Sự lây nhiễm
Giả sử nước trong hệ thống sản xuất được xử lý đúng cách và đã sử dụng cách quản lý lượng vi khuẩn trong bể sản xuất có hiệu quả, thì có lẽ nguồn lây nhiễm nhiều nhất từ vi khuẩn trong giai đoạn đầu là hệ thống nuôi ấu trùng Artemia và hệ thống nuôi tảo.
Có nhiều cách để giảm thiểu sự lây nhiễm này,từ việc thay đổi cách sử dụng vi khuẩn cho đến việc sử dụng các chất hóa học như dung dịch formalin hay hóa chất khử trùng diệt khuẩn Cloramine-T để diệt bất kỳ vi khuẩn phẩy nào bám trên bề mặt và việc xảy ra lây nhiễm qua đường không khí là kết quả của nơi và cách sản xuất ấu trùng Artemia.
Ngoài ra, ấu trùng Nauplii Artemia có thể được thu gom và khử trùng bề mặt như tôm. Việc sử dụng nhiều nước sạch là điều cần thiết để tiêu diệt vi khuẩn yếu.
Tảo thường bị vi khuẩn lây nhiễm bệnh.
Có thể giảm thiểu điều đó bằng cách sử dụng hệ thống sản xuất khép kín
.Nơi mà vi khuẩn không thể xâm nhập vào,việc thay đổi thành phần loài vi khuẩn sẽ có thể làm giảm toàn bộ lượng vi khuẩn không lành tính.
Sự nhìn xa
Việc kiểm tra nguồn vào trong giai đoạn trưởng thành và giai đoạn đầu là rất quan trọng khi nuôi ấu trùng vì nó đảm bảo các tác nhân gây bệnh đã được kiểm soát.
Khi động vật lột xác, sẽ có nhiều loại thức ăn được cho vào bể nuôi, chính vì vậy vi khuẩn sẽ theo đó mà lớn lên.
Một lần nữa, việc sử dụng cách thức thay đổi thành phần loài vi khuẩn bằng phương pháp vi sinh có thể giúp kiểm soát phẩy khuẩn trong suốt quá trình này. Điều cuối cùng được đề cập tới trong quá trình này là việc dự trữ hậu ấu trùng trong ao.
Có thể sử dụng một số phương pháp khử trùng trứng và ấu trùng nauplii để làm giảm lượng vi khuẩn kèm theo.
Biên dịch: www.2lua.vn
Có thể bạn quan tâm
Mặc dù, tôm càng xanh là đối tượng thủy sản nuôi không đem lại lợi nhuận cao như đối với tôm nuôi nước lợ nhưng ít rủi ro dịch bệnh và có hiệu quả ổn định. Do đó, ở những vùng có điều kiện nuôi đối tượng này hay ở những ao nuôi tôm sú, tôm thẻ chân trắng có thể thả nuôi luân canh với tôm càng xanh ở thời điểm nước ngọt để gia tăng lợi nhuận trên cùng diện tích ao nuôi và nhất là cắt mầm bệnh tôm nuôi nước lợ ở vụ nuôi sau.
Dù các đặc điểm của hậu ấu trùng / tôm giống / tôm post đã thay đổi theo thời gian nhưng vẫn chưa có phương pháp chuẩn để sử dụng nhằm xác định kích cỡ. Thông thường, “kích cỡ” của hậu ấu trùng được tính theo ngày tuổi của chúng sau khi qua giai đoạn biến thái.
Lươn là đối tượng nuôi phổ biến ở ĐBSCL nhưng những công trình nghiên cứu về loài thủy sản đặc biệt này còn rất ít. Bước đột phá của An Giang là chuyển giao công nghệ sinh sản bán nhân tạo đến một số hộ dân tại các vùng nuôi chuyên canh tương đối thành công và nghề sản xuất giống lươn bắt đầu hình thành từ năm 2012.
Sinh sản lươn bán nhân tạo, kỹ thuật đơn giản phù hợp với các hộ dân có diện tích nhỏ, giúp người nuôi chủ động nguồn giống trong sản xuất.
Hiện nay, nghề nuôi lươn đang phát triển, nhất là vào mùa nước lũ về có nguồn lươn giống dồi dào. Tuy nhiên, theo thực tế của nhiều hộ nuôi lươn thì ở giai đoạn đầu thả giống, lươn bị hao hụt nhiều do con giống hiện nay chủ yếu dựa vào giống tự nhiên.