Khắc phục hiện tượng tôm lội
Tôm lội là hiện tượng tôm kéo thành đàn, bơi lội xung quanh bờ, tôm kém ăn. Hiện tượng tôm kéo đàn vẫn thường xảy ra trong ao nuôi tôm.
Tuy chưa dẫn đến chết tôm nhưng đây là hiện tượng báo hiệu có dấu hiệu bất thường xảy ra trong ao tôm. Những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng tôm lội như sự thay đổi nhiệt độ môi trường, sự phân hủy các hợp chất hữu cơ xảy ra nhanh sinh ra khí độc gây hại cho tôm, trong ao thiếu ô xy, sự thay đổi đột ngột pH nước, độ trong. Tôm kéo đàn quanh bờ thường xảy ra ở các ao tôm có mật độ nuôi dày, không lắp đặt hệ thống quạt gió dẫn đến thiếu ô xy. Có thể phân loại thành các trường hợp sau:
1. Với những ao có màu nước đậm, độ trong thấp, hàm lượng ô xy hòa tan ở tầng đáy thấp đã tạo ra khu vực yếm khí nên sinh ra nhiều khí độc như NH3, NO2… vì vậy làm cho tôm không thể cư trú ở khu vực này mà phải bơi lên tầng giữa hay tầng mặt để tìm nơi có điều kiện thích nghi hơn để sống tạo ra hiện tượng tôm kéo đàn.
2. Với những ao nước trong:
Tôm kéo đàn sẽ xảy ra trong ao có rong đáy hoặc không có rong đáy.
+ Ao có rong đáy như rong đuôi chồn, rong mềm… do quá trình quang hợp của các loại rong đáy làm tăng pH (> 9). Khi pH cao sẽ gây độc cho tôm do lượng khí NH3 có hàm lượng cao ở đáy ao. Ở những ao này có xử lý chất thải sẽ làm hạn chế lượng khí độc, chính vì thế mà mặc dù pH cao nhưng chưa làm chết tôm mà mới dừng lại ở mức tôm kéo đàn.
+ Ao không có rong đáy: Những ao này thường nghèo dinh dưỡng, độ kiềm thấp làm mất cân đối các yếu tố môi trường và sự biến động các chỉ tiêu môi trường thường xuyên xảy ra cũng làm cho tôm kéo đàn.
Biện pháp khắc phục:
+ Làm tăng hàm lượng ôxy hòa tan khu vực đáy ao. Không để khu vực đáy bị yếm khí thông qua các biện pháp như xy phông đáy ao, quạt nước, đảo nước hoặc trộn nước bằng các máy đuôi tôm.
+ Tăng mực nước bằng nước sạch làm ổn định các yếu tố môi trường.
+ Với những ao có rong đáy khi tôm hơn một tháng tuổi thì dùng các biện pháp như nhổ rong đuôi chồn, với rong mềm, rong nhớt thì dùng lưới kéo sát đáy ao, lấy vợt vớt đi các rong nổi trên mặt nước và tấp phía cuối gió. Những hoạt động này tiến hành nhiều ngày. Khi làm xong công việc cần bón phân gây màu nước và tạt bổ sung 5-10 kg/1.000 m2 một trong các loại như Daimetin, Neolite. Zeolite…
Chú ý các chỉ tiêu của nước:
+ Độ trong: Thích hợp từ 20-30 cm, nếu nước có màu đậm thì cần thay nước. Nước có độ trong sâu hơn thì cần bón vôi, bón phân gây màu nước.
+ pH: Thích hợp là từ 7,5-8,5. Trong trường hợp thấp hơn cần bón vôi để tăng pH, cao hơn thì cần thay nước.
+ Độ kiềm: Trên 80 mg/lít (không nên quá 200 mg/lít). Để đạt độ kiềm thích hợp cho tôm bằng cách thay nước, bón vôi sò hay Super canxi hoặc Dolomite…
+ Quản lý khí độc: Cần chú ý nhiều ở những ao giàu đạm, ở giai đoạn một tháng tuổi vì giai đoạn này tôm chưa khuấy động nước nền đáy ao, khí độc không thể thoát ra ngoài. Khắc phục bằng cách xáo trộn nước, phun chế phẩm sinh học, hoặc áp dụng giải pháp sinh học “cá rô phi – tôm sú”.
Quản lý sức khỏe tôm:
+ Theo dõi thường xuyên chế độ ăn của tôm, không cho ăn thừa thức ăn.
+ Tăng cường vitamin C vào trong thức ăn để chống lại nhiệt độ tăng cao và sự biến động của các yếu tố môi trường.
Có thể bạn quan tâm
Tôm hiện là một trong những loài thủy sản nuôi nhiều nhất và đem lại lợi nhuận cao cho bà con nông dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công cũng không ít nông dân phải lao đao vì tôm mắc bệnh. Để giúp bà con phòng tránh những hiểm họa trong nuôi tôm, chúng tôi xin giới thiệu một số bệnh và đưa ra cách phòng tránh chung giúp bà con phần nào hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra
Ở tôm sú, bệnh thường hay gặp nhất, khó ngăn ngừa và điều trị là bệnh thân đỏ đốm trắng. Theo các công trình nghiên cứu, tất cả các giai đoạn phát triển của tôm đều có thể nhiễm bệnh này. Giai đoạn phát triển mạnh nhất là từ tháng nuôi đầu tiên đến tháng nuôi thứ hai trong ao nuôi tôm thịt. Gây bệnh đốm trắng ở tôm sú do một loại virus có tên khoa học Systemic Ectodermal and Mesodorma Baculoviras (SEMBV). Virus này nhiễm cảm ở một số mô của nhiều cơ quan khác nhau có nguồn gốc trung bì và ngoại bì như: mang, lớp biểu bì mô của vỏ, thần kinh, dạ dày và một số cơ quan khác trên con tôm. Trên thực tế, dù có phương pháp ngăn ngừa tốt như thế nào thì điều kiện tôm bị virus SEMBV vẫn tồn tại, đôi lúc người nuôi điều trị bằng thuốc và hóa chất cũng không ổn. Bởi vậy, việc có thể làm là ngăn chặn, tránh lây lan từ ao nuôi này sang ao nuôi khác.
Trong xử lý rong đáy nên bổ sung thêm Vitamin C vào thức ăn để giúp tôm tăng sức đề kháng, sử dụng chế phẩm sinh học để xử lý nền đáy ao.
Một cách hình tượng, có thể coi cuống mắt của tôm cùng với một vài cấu trúc nội tiết khác như một hệ thống điều tiết nước chảy từ một hồ chứa. Việc cắt cuống mắt tương tự như phá đập để lấy nước.
Vụ nuôi tôm sú 2006 tại hai xã Xuân Vinh, xuân Hòa huyện Xuân Trường được kỳ vọng rất nhiều, nó cũng là nỗi lo canh cánh của những người dân một nắng hai sương nơi đây. Rồi đột nhiên tôm chết, chỉ trong khoảng 1 tháng (từ cuối tháng 4 đến cuối tháng 5), tỷ lệ số lượng ao nuôi tôm bị chết lên tới 90-95%.