Trang chủ / Tin tức / Tin thủy sản

Hiểu về nấm men bên trong đường ruột cá

Hiểu về nấm men bên trong đường ruột cá
Tác giả: Trị Thủy (Lược dịch)
Ngày đăng: 03/01/2020

Bài viết cung cấp cái nhìn tổng thể về nấm men trong ruột cá và vai trò của nấm men với cá.

Men trong đường ruột, men đường ruột cá, nấm men với cá, hiểu biết nấm men

Nghiên cứu đầu tiên phân lập nấm men từ cá suốt (Atherinopis affinis littoralis) và cá thu ở Thái Bình Dương (Trachurus symmetricus) đã được chứng minh bởi van Uden và Castelo Branco (1963).

Kể từ đó, các nấm men đã được xác định là một phần của hệ vi sinh vật bình thường ở cá; đôi khi mật số cao được quan sát thấy ở cá khoẻ mạnh, nhưng dữ liệu có sự khác biệt về số lượng khuẩn lạc và sự đa dạng về phân loại (Gatesoupe 2007). Tuy nhiên, tài liệu về vai trò của men trong sức khỏe và dinh dưỡng cá là rất hiếm. Nấm men được phân bố rộng rãi trong một số môi trường tự nhiên bao gồm cả nước ngọt và nước biển.

Nấm men biển tham gia vào một số quá trình sinh thái trên biển, đặc biệt là ở môi trường cửa sông và ven bờ, chẳng hạn như phân hủy chất nền thực vật, tái chế chất dinh dưỡng, phân hủy sinh học dầu và các hợp chất tái tạo, và là một phần của vi sinh vật của động vật biển (Kutty và Philip 2008). Điều này một phần do thực tế là nấm men có tiềm năng chuyển hóa đặc biệt có sẵn để khai thác (Kutty và Philip 2008, Song et al., 2010). Đáng chú ý, phần lớn tiềm năng này vẫn chưa được phát hiện. Một số hợp chất được sản xuất bởi nấm men có các đại lượng sinh học rất lớn như: cellproteins, vitamin, sắc tố, enzyme miễn dịch (Chietal, 2009)

Nồng độ nấm men trong ruột cá rất khác nhau và có thể dao động từ các mức không phát hiện tới 107 CFU/g trong ruột (Gatesoupe, 2007). Điều quan trọng cần lưu ý là các tế bào nấm men có thể lớn hơn hàng trăm lần so với các tế bào vi khuẩn, điều này có thể giải thích thực tế rằng số lượng nấm men thấp (104 CFU/g) qua thức ăn có thể gây ra những tác dụng có lợi cho vật chủ (Tovar và cộng sự, 2002, Tovar-Ramírez và cộng sự, 2004).

Thực tế, thể tích của tế bào nấm men có thể lớn hơn so với vi khuẩn (200 – 300μm đối với nấm men so với 1μm của vi khuẩn Pseudomonas, Gatsoupe ,2007) và do đó nấm men có ý nghĩa sinh lý thậm chí khi chiếm ít hơn 1% tổng số vi khuẩn phân lập. Do đó, lượng nấm men thấp có thể tương ứng với quy mô dân số đủ để hoạt động trên cơ thể chủ.

Nấm men được xác định từ ruột cá thuộc hai loài: Ascomycota, trong đó Saccharomycetaceae là họ quan trọng nhất, và Basidiomycota, bao gồm chi Rhodotorula (nấm men đỏ thường được phát hiện trong vi sinh vật của cá biển và nước ngọt) (Newman et al. 1972, Andlid và cộng sự, 1995). Nấm men Ascomycota: Metschnikowia zobelii và Candida tropicalis và nấm Tridolomycota của Basidiomycota chiếm ưu thế ở một số loài cá biển. Ascomycota: Debaryomyces hansenii, Candida spp., Saccharomyces cerevisiae và Basidiomycota: Leucosporidium sp. đã thường xuyên được phân lập như là các loài nấm men nổi trội nhất trong ruột cá. Cryptococcus, Pichia, và Saccharomycodaceae cũng đôi khi được phân lập (Gatesoupe 2007).

Người ta đã báo cáo rằng nấm men được phân lập từ ruột của cá hồi vân có thể dính vào và phát triển trong chất nhầy đường ruột (Andlid và cộng sự, 1998). Một số nấm men có thể định cư trong ruột cá khi được đưa vào thức ăn (Waché và cộng sự, 2006). Khả năng bản đại hóa này có thể liên quan đến tính kỵ nước bề mặt tế bào (Vázquez-Juárez và cộng sự, 1997) và khả năng của các chủng này phát triển trên chất nhầy (Andlid et al.1998). Hơn nữa, nấm men có tính năng tăng cường miễn dịch do các thành phần như ß-glucan, mannoprotein, chitin (như một thành phần nhỏ) và axit nucleic (Ortuño và cộng sự, 2002).

Các nghiên cứu đã cho thấy tác dụng có lợi của S. cerevisiae khi bổ sung vào thức ăn cho cá. Chế độ ăn cá bổ sung men này có tác dụng như là các chất làm tăng đáp ứng, tăng năng suất, sự sống sót trên một số loài cá (Welker và cộng sự, 2007, Chiu và cộng sự 2010, Harikrishnan và cộng sự, 2010, Tukmechi và cộng sự, 2011 ).

Gần đây, Hoseinifar et al. (2011) báo cáo rằng nấm men bia không hoạt động trong chế độ ăn có thể ảnh hưởng đến thành phần vi sinh; mặc dù tổng số vi khuẩn đường ruột không bị ảnh hưởng, nhưng mức LAB tăng lên đáng kể ở cá có ăn. Hầu hết các nghiên cứu đã được công bố đã được thực hiện với Saccharomyces cerevisiae; tuy nhiên, kết quả hứa hẹn cũng đã thu được với Debaryomyces hansenii, đã được đánh giá bằng cá mú và cá mè biển (Reyes Becerril và cộng sự 2008, 2008).


Có thể bạn quan tâm

Thử nghiệm thiết bị tạo ôxy mới trong nuôi tôm Thử nghiệm thiết bị tạo ôxy mới trong nuôi tôm

Thiết bị Aquablaster trong nuôi trồng thủy sản. Đây là thiết bị mới dùng để tạo ôxy và phân giải các chất hữu cơ có hại dưới đáy ao.

03/01/2020
Phòng trị, bệnh do vi khuẩn ở cá nuôi lồng bè Phòng trị, bệnh do vi khuẩn ở cá nuôi lồng bè

Bài viết cung cấp một số bệnh phổ biến trên cá do vi khuẩn, dấu hiệu nhận biết và biện pháp chữa trị.

03/01/2020
Phương pháp cho cá lồng ăn hiệu quả Phương pháp cho cá lồng ăn hiệu quả

Chi phí thức ăn nuôi cá lồng, chiếm phần lớn trong tổng chi phí nuôi. Do đó cần có biện pháp cho ăn hiệu quả nhằm đảm bảo tăng trưởng cho cá nuôi, giãm chi phí

03/01/2020
Sản phẩm khuyên dùng
Chất lượng vượt trội, bọt khí mịn, kháng khuẩn. Ống Nano-Tube là lựa chọn sục khí được ưa chuộng nhất trên thị trường để tăng cường oxy đáy trong ao nuôi tôm …
Sản phẩm khuyên dùng
Chất lượng hoàn toàn vượt trội, sử dụng hộp số giảm tốc vỏ gang, một trải nghiệm vô cùng mới. Oxy hoà tan cao, tạo dòng lưu thông mạnh giữ cho đáy ao luôn sạch.