Hiện Tượng PH Thấp Và Biện Pháp Khắc Phục

Trong nuôi trồng thủy sản, các thông số môi trường đóng vai trò quan trọng, quyết định sự phát triển của các loài thuỷ sản và sực thành bại của vụ nuôi. Nói cách khác, thông số môi trường ảnh hưởng trực tiếp đến tỉ lệ sống, sinh trưởng, dinh dưỡng của vật nuôi. Các thông số môi trường được biết đến như độ pH (độ phèn), nhiệt độ, hàm lượng oxy, độ cứng, độ kềm…trong đó thông số độ phèn và sự biến động liên tục của thông số này, trực tiếp gây ra những đợt tress cho vật nuôi thủy sản.
Ảnh hưởng rõ nét nhất là khi độ phèn tăng cao, làm nồng độ NH3 (khí Amoniac) trong nước tăng cao, trực tiếp gây độc cho tôm, cá nuôi. Khi độ phèn thấp, làm hàm lượng H2S (khí sulfuahydro) trong ao nuôi tăng cao, trực tiếp gây độc cho vật nuôi thủy sản. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi đề cập đến hiện tượng pH thấp, những nguyên nhân, ảnh hưởng của hiện tượng này, và một số giải pháp khắc phục.
Độ phèn, hiểu rộng rãi hơn là biểu thị hàm lượng ion H+ (độ acid) trong môi trường nước ao nuôi thủy sản. Mức độ biểu thị dao động từ 0-14, trong đó ở mức độ phèn bằng 7 được gọi là trung tính, đa số các loài thủy sản đều sống và phát triển tốt ở nguồn nước có pH= 7 (trung tính). Nồng độ H+ biến thiên trong ao nuôi hình thành từ một số nguyên do: sự thủy phân Fe3+ và Al3+, từ quá trình oxy hóa hợp chất Fe (sắt), và S (lưu huỳnh), từ quá trình phân hủy hữu cơ trong ao do dư thừa chất dinh dưỡng, từ quá trình hô hấp của vi sinh vật…Nói cách khác, nguyên do pH thấp trong ao nuôi thủy sản vì hàm lượng H+ sinh ra quá nhiều, liên tục, với nồng độ tăng dần theo mức độ ô nhiễm của ao nuôi, theo sự phát triển, gia tăng mật độ nhanh của tảo.
Khi pH thấp, làm giảm khả năng vận chuyển oxy của hemoglobin (tế bào hồng cầu trong cơ thể các loài thủy sản), các bộ phận trên cơ thể như mang, da tiết ra nhiều nhớt, chất nhầy. Khi pH thấp, mang có hiện tượng sưng tấy, khả năng đề kháng trước bệnh tật của vật nuôi thủy sản trong ao giảm rõ rệt, khi đó nồng độ H2S sẽ tăng, độc và nguy hiểm hơn so với khi pH cao.
Như vậy, để giải quyết vấn đề nguồn nước có pH thấp trong ao nuôi thủy sản, có nhiều giải pháp khác nhau. Trước tiên, những ao thuộc vùng phèn không nên phơi ao quá khô dưới ánh nắng mặt trời. Ngoài giải pháp bón vôi và phơi ao, làm tăng độ thông thoáng, khoáng hóa lớp bùn đáy ao, có thể bón thêm phân. Trước khi lấy nước vào ao nuôi, dùng phân chuồng hoai, bón nơi đáy ao. Lượng phân chuồng dùng từ 25-30kg/100m2 đáy ao. Hoặc có thể dùng chế phẩm sinh học để cải thiện, nâng nồng độ pH ao nuôi lên. Cung cấp chế phẩm sinh học nhằm kích thích vi sinh vật có lợi phát triển gia tăng số lượng, chủng loại. Hạn chế tối đa tác hại do các vi sinh vật gây hại, các khí độc được tạo ra từ quá trình phân hủy hữu cơ.
Phân giải thức ăn, chất hữu cơ tích tụ đáy ao nuôi. Mục đích trực tiếp của chế phẩm sinh học nhằm duy trì chất lượng nước, đáy ao, nguồn nước ao nuôi được sạch hơn (chất lượng nước ao nuôi thủy sản phụ thuộc vào số lượng vi khuẩn phân hủy, nhiệt độ, môi trường nước, hàm lượng oxy trong ao). Mục đích gián tiếp của chế phẩm sinh học nhằm hạn chế tác động của bệnh đốm trắng, đầu vàng đối với tôm sú, tôm thẻ chân trắgn, giảm nhu cầu thay nước ao nuôi, ổn định và duy trì sự phát triển của tảo, tăng sự phát triển phiêu sinh động, giảm thiểu sự biến động pH, ổn định chất lượng nước, giúp tôm, cá khỏe mạnh, phát triển nhanh, ít nhiễm bệnh.
Các loại chế phẩm hiện nay trên thị trường rất nhiều, tuy nhiên nên chọn loại chế phẩm sinh học có nguồn gốc là các vi sinh vật sống, được làm từ các chủng như Nitrobacteria, Nitrosomonas, Bacillus…hoặc chọn một số thương hiệu NBT-POND, EM,…
Ngoài ra có thể dùng các hạt trao đổi Ion để nâng pH lên, tuy nhiên trong ao nuôi tôm, do diện tích quá lớn, nếu dùng loại này, chi phí rất lớn, đội giá thành sản xuất lên cao, mô hình nuôi sẽ không thu được kết quả tốt về mặt kinh tế.
Lý Vĩnh Phước
Có thể bạn quan tâm
Thông tư này quy định đối với cả tôm giống và tôm nuôi thương phẩm, áp dụng với tổ chức, cá nhân Việt Nam, hoặc tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động sản xuất, kinh doanh tôm và nuôi tôm trên lãnh thổ Việt Nam và cơ quan quản lý có liên quan trên phạm vi cả nước.

Để đáp ứng nhu cầu con giống đầu vụ nuôi ở miền Bắc, một số lượng lớn giống cá rô phi được chuyển từ miền Nam ra bằng máy bay. Muốn cá giống khỏe mạnh, tỷ lệ sống cao, khi vận chuyển cần tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật.

Nhằm hướng đến nuôi những loài thủy sản đạt sản lượng lớn, năng suất cao, chất lượng tốt, tiết kiệm diện tích và không gây ô nhiễm môi trường, công nghệ nuôi thủy sản trong hệ thống lọc tuần hoàn là một sự lựa chọn hợp lý.

Lựa chọn mô hình thích hợp khi nuôi tôm càng xanh kết hợp trồng lúa sẽ mang lại hiệu quả cao. TSVN giới thiệu một vài mô hình tôm lúa tiêu biểu.

Công nghệ Biofloc trong ương nuôi tôm đã được áp dụng thành công ở nhiều nước. Ở Việt Nam, để khắc phục thiệt hại do Hội chứng tôm chết sớm (EMS, AHPNS), năm 2013, Công ty TNHH Khoa Kỹ Sinh vật Thăng Long đã ứng dụng thành công, công nghệ này.