Đã có cách giải cứu cá tra

Sau một năm thực hiện thí điểm “Chuỗi liên kết dọc cá tra” cho thấy mô hình này đã giải quyết được những khó khăn, bế tắc tồn tại hàng chục năm nay đối với lĩnh vực này.
Nông dân sướng
Gia đình ông Lê Quang Vinh ở xã Vĩnh Hanh (huyện Châu Thành, An Giang) vốn gắn bó với nghề nuôi cá tra từ lâu. Sau thời điểm năm 2008, do nuôi cá tra gặp khó khăn, giá giảm, thua lỗ nặng nên ông Vinh tính chuyện “treo ao” bỏ nghề nuôi cá.
“Khi có chương trình chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ cá tra, tôi đã đăng ký tham gia” - ông Vinh kể. Theo ông Vinh, trước đây khi còn nuôi tự do, tự kiếm mối bán thì gặp đủ thứ khó khăn. Có khi bức bách chuyện thức ăn cho cá phải vay nóng với lãi suất cao. Cá tới lứa bán phải chạy vạy tìm nơi tiêu thụ nhưng nhiều khi bán không được.
“Nay vô chuỗi khỏe re. Cá tới lứa, thu hoạch ngay đưa về nhà máy để chế biến xuất khẩu. Sau khi công ty quyết toán, lấy giá trị của sản lượng cá trừ đi phí thức ăn, thuốc men đã sử dụng…, phần dôi dư là lợi nhuận, nông dân chỉ việc đến ngân hàng nhận tiền” - ông Vinh nói vẻ hào hứng.
Cũng như ông Vinh, ông Nguyễn Văn Tấn ở xã Vĩnh Thạnh Trung (huyện Châu Phú) vừa thu hoạch 196 tấn cá với lợi nhuận hơn 300 triệu đồng cho biết: “Nuôi cá mà không phải lo vốn, chẳng phải lo chuyện bán cá, không phải đi đòi nợ dài dài. Gia đình tôi chỉ tập trung nuôi cá sao cho tốt, thu hoạch xong ao nào là tới ngân hàng lãnh tiền lời về. Chưa bao giờ dân nuôi cá tra tụi tui... sướng được như vầy!”.
Không chỉ ông Vinh, ông Tuấn mà nhiều nông dân tham gia chuỗi liên kết tiêu thụ cá tra cũng cho biết giá thành nuôi cá trong chuỗi giảm trên 500 đồng/kg so với nuôi tự do (không tham gia chuỗi liên kết) và lợi nhuận mỗi kg cá thấp nhất 1.500 đồng. Tính chung, nếu so với nuôi tự do, lợi nhuận cao hơn từ 48,7-57,4 triệu đồng/ha/vụ. Trong tình hình nuôi cá tra đang khó khăn như hiện nay, đây là mức lãi tốt.
Các bên đều thắng
Đầu tháng 8-2014, chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ cá tra đi vào hoạt động với tám nông dân và các công ty xuất khẩu, chế biến thức ăn thủy sản, cung cấp thuốc thú y thủy sản… tham gia. Tổng diện tích thả nuôi trên 41 ha.
Khi tham gia chuỗi này, nông dân được vay vốn bằng hình thức tín chấp lên đến 90%, 10% còn lại là thế chấp. Khi thu hoạch cá được doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm.
Bên cạnh đó, việc thực hiện cho vay theo mô hình này cũng tạo thuận lợi rất lớn cho người nuôi cá và doanh nghiệp để họ chủ động đàm phán với các doanh nghiệp cung ứng thức ăn nuôi cá. Qua đó được cung cấp thức ăn với giá thấp hơn giá thị trường, hưởng mức chiết khấu cao hơn. Còn Nhà nước thực hiện được vai trò quản lý vĩ mô, dễ dàng nắm bắt được nhu cầu thị trường cũng như sản lượng nuôi của nông dân, trên cơ sở đó điều tiết cung cầu một cách hợp lý...
Ông Nguyễn Thái Sơn, Giám đốc điều hành chuỗi của Công ty TNHH SXTMDV Thuận An (An Giang), cho biết: “Qua một chu kỳ nuôi, đến nay chúng tôi chưa thấy có phát sinh gây bất lợi cho các bên tham gia. Chỉ có yếu tố giá là phụ thuộc vào thị trường nhưng sẽ khắc phục được trong thời gian tới khi các nhà máy tiến hành liên kết ngang để đưa ra một giá sàn mua và bán. Lúc đó sẽ tránh được tình trạng doanh nghiệp tranh mua, tranh bán phá giá lẫn nhau. Điều quan trọng hơn là khách hàng nước ngoài an tâm về chất lượng sản phẩm của Việt Nam”.
Còn ở chuỗi liên kết tại Đồng Tháp, ông Trần Văn Hùng, đại diện Công ty TNHH Hùng Cá, cho hay: “Qua mô hình phát vay, doanh nghiệp thuận lợi và nông dân tham gia chuỗi đảm bảo được lợi nhuận nên thời gian tới công ty sẽ tiếp tục đề nghị mở rộng thêm các hộ dân tham gia chuỗi”.
Không chỉ doanh nghiệp mới nhìn thấy hướng mở và lợi ích từ chuỗi liên kết, mà chính người nông dân đã nhìn nhận được vấn đề. Nông dân Nguyễn Văn Tấn nói: “Nếu so sánh giữa nuôi cá tự do với nuôi cá theo mô hình liên kết chuỗi thì tôi khẳng định mô hình liên kết là mô hình bền vững. Ví dụ: Khi tham gia, nông dân không sợ mua phải thức ăn kém chất lượng mà giá lại tốt nhất. Thực tế trong gần 20 năm qua cho thấy nếu mãi làm ăn riêng lẻ thì chỉ có thua thiệt mà thôi. Đi vào con đường hợp tác, liên kết để sản xuất có lợi cho tất cả các bên”.
Đánh giá về mô hình này, ông Lê Chí Bình, Phó Chủ tịch Hiệp hội Nghề nuôi và chế biến thủy sản An Giang, cho rằng: “Mô hình trên đã đem lại hiệu quả thiết thực khi tất cả thành phần tham gia gắn kết cùng nhau nên giảm tối đa rủi ro và đều cùng được hưởng lợi. Mô hình là lối ra cho con cá tra trong bối cảnh khó khăn hiện nay và cũng là xu thế tất yếu để giúp con cá tra phát triển bền vững”.
Có thể bạn quan tâm

Đề án Thí điểm tổ chức khai thác, thu mua, chế biến, tiêu thụ cá ngừ theo chuỗi tại 3 tỉnh Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa nhằm khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững nguồn lợi cá ngừ đại dương, hài hòa lợi ích cho các bên tham gia trong chuỗi từ khai thác, thu mua, chế biến, tiêu thụ với tinh thần chung là sẽ tập trung nguồn lực để thúc đẩy phát triển ngành cá ngừ, tạo ra liên kết chặt chẽ theo chuỗi giữa các khâu, đảm bảo giá trị kinh tế.

Mức giá hồ tiêu đầu năm 2014 tưởng được coi là kỷ lục với 145 ngàn/kg, nhưng đến tháng 7 còn lên tới 190 ngàn/kg. Giá tiêu càng hấp dẫn, nhiều nhà vườn càng chạy đua trồng tiêu.

Nếu lấy mốc thời gian năm 1996 (thời điểm Công ty Agifish xuất khẩu container cá basa đầu tiên vào thị trường Mỹ) để đề cập đến quá trình phát triển của một sản phẩm quốc gia thì đến nay, nghề nuôi và chế biến cá tra xuất khẩu ở ĐBSCL đã “ngót nghét” gần 20 năm. Trong quãng thời gian ấy, có hàng chục ngàn người làm giàu một cách nhanh chóng, nhà máy chế biến thủy sản ra đời như “nấm mọc sau mưa”.

Từ chỗ toàn ngành chỉ XK được 11 triệu USD, không đủ cho việc nhập vật tư thiết bị cho SX trong nước, đến nay đã XK khoảng 6,5 tỷ USD; từ chỗ cả ngành nuôi trồng và khai thác thủy sản chỉ cung cấp được 600.000 tấn thủy hải sản cho nhu cầu tiêu dùng nội địa, đến nay đã SX trên 3 triệu tấn.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông lâm ngư (KNLN) Thừa Thiên Huế Bùi Thị Hải Yến cho biết, gần đây đơn vị thực hiện nhiều mô hình nuôi trồng thủy sản xen ghép mang lại hiệu quả khả quan. Mô hình nuôi tôm sú-rong câu trong ao nước lợ thực hiện thí điểm trong năm 2014 mang lại kết quả như mong đợi. Ưu điểm của mô hình là giãn khoảng cách vụ nuôi, tác động tương hỗ giữa thực vật (rong biển) và động vật (tôm) đến môi trường, hạn chế tối đa dịch bệnh và mang lại lợi nhuận cao.