Chất Lượng Nước Và Quản Lý Chất Lượng Nước Trong Nuôi Trồng Thủy Sản (P6)

Quản lý chất lượng nước
Các thông số chất lượng nước cần được theo dõi để phục vụ trong hướng dẫn cách quản lý ao hồ, như vậy có thể tránh được các điều kiện gây ra ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của tôm.
Nếu xảy ra trường hợp xấu, các thông số này có thể giúp đỡ trong việc chẩn đoán, nhờ đó chúng ta có thể đưa ra biện pháp khắc phục. Từng thông số riêng lẻ thường không chẩn đoán được gì, nhưng nhiều thông số gộp lại sẽ là các chỉ số thể hiện các quá trình đang xảy ra trong ao hồ.
Mật độ của thực vật phù du và vi sinh vật là yếu tố quan trọng trong việc quyết định về mức độ oxy và các chất chuyển hóa trong ao. Sự biến động trong nồng độ oxy hòa tan (including its vertical profile), độ pH và carbon dioxide (CO2) cho biết mật độ của thực vật phù du và vi sinh vật. Vì carbon dioxide (CO2) là yếu tố chính ảnh hưởng đến sự biến động đến độ pH, nên viêc theo dõi biến động độ pH nên được xem xét thỏa đáng; Ngoài ra, carbon dioxide (CO2) khó có thể để đo lường chính xác.
Đo các số liệu hàng ngày nên được tiến hành vào đầu giờ các buổi, tức là buổi sáng từ 5 đền 6 giờ sáng và buồi chiều từ 2 đến 3 giờ chiều. Các thông số này tương ứng với chu kỳ trước khi bắt đầu quá trình quang hợp và đỉnh cao của quá trình quang hợp.
Vì vậy, thông số tối đa và thông số tối thiểu xảy ra trong thời gian này. Các thông số khác không có mô hình rõ ràng, do đó có thể được theo dõi chỉ một lần một ngày, nên đo các số liệu này mỗi ngày tại một thời điểm chung. Dữ liệu thức ăn và tăng trưởng cần phải được trình bày bên cạnh với các thông số chất lượng nước.
Bởi vì tảo nở hoa là hậu quả của các chất dinh dưỡng từ thức ăn và thức ăn dư thừa có thể gây ra sự suy thoái nhanh chóng của chất lượng nước.
Cẩn trọng theo dõi và thu thập dữ liệu sẽ vẫn vô dụng trừ khi các số liệu này ảnh hưởng đến các quyết định liên quan đến quản lý nước. Việc này quan trọng hơn khi quyết định tăng chi phí để thực hiện chương trình quản lý khác nhau (sục khí, thay nước, đầu vào).
Hầu hết các vấn đề chất lượng nước có thể được giải quyết với việc thay nước thích hợp. Vì vậy, nếu một lượng lớn nước thích hợp cho nuôi trồng thủy sản đã có sẵn, giám sát sẽ không được đánh giá đúng và năng suất có thể không đạt được như mục tiêu đã đề ra. Nếu vấn đề nước bị hạn chế, thì khi người nuôi thâm canh nhiều hơn, các nguy cơ phải gặp sẽ tăng lên như chất lượng nước và các vấn đề bệnh tật.
(Còn tiếp)
Source (trích lục): WATER QUALITY FOR POND AQUACULTURE
Claude E.Boyd - Department of Fisheries And Allied Aquacultures Auburn University, Alabama 36849 USA
Biên dịch viên: Vân Anh
Ghi rõ nguồn www.2lua.vn khi trích dẫn, sao chép nội dung bài viết này.
Có thể bạn quan tâm

Thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ 17, Quyết định số 2844/QĐ-UBND ngày 31/7/2012 của UBND tỉnh Nghệ An về việc ban hành kế hoạch triển khai thực hiện kết luận số 07-KL/TU ngày 14/5/2012 của Ban thường vụ Tỉnh ủy về “Chương trình phát triển kinh tế thủy sản tỉnh Nghệ An thời kỳ 2011 - 2015, có tính đến năm 2020”.

Công ty Công nghệ sinh học TransGenada ở Arizona đã được Viện Thực phẩm và Nông nghiệp Quốc gia (NIFA) thuộc Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) tài trợ cho hoạt động nghiên cứu dành cho các doanh nghiệp nhỏ.

Tính đến hết tháng 6/2013, diện tích tôm sú và tôm thẻ chân trắng bị thiệt hại khoảng 23.938 ha, chiếm 4,2% tổng diện tích thả nuôi, bằng 65% so với cùng kỳ. Trong đó, diện tích tôm sú bị thiệt hại là 20.857 ha chiếm 3,8% diện tích thả nuôi, bằng 63,8% so với cùng kỳ 2012; tôm chân trắng là 3.081 ha chiếm 17,1% diện tích thả nuôi, bằng 124,9% so với cùng kỳ năm 2012.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Nghệ An ngư dân đã thành lập được 159 Tổ hợp tác khai thác thủy sản trên biển với 1.113 tàu (trung bình 5-7 tàu/Tổ) có công suất máy chính từ 20CV trở lên;

Theo dự báo thời tiết thuỷ văn mùa mưa, bão, lũ năm nay diễn biến phức tạp, diện tích nuôi trồng thủy sản lại là vùng có nguy cơ bị ảnh hưởng ngập úng lớn nhất, gây thiệt hại không nhỏ cho người sản xuất.