Chất Lượng Nước Và Quản Lý Chất Lượng Nước Trong Nuôi Trồng Thủy Sản (P5)

Amoniac là khí quan trọng thứ hai trong nuôi cá; ý nghĩa của nó đối với sản xuất cá chất lượng tốt là nổi bật. Nồng độ amoniac cao có thể phát sinh từ cho ăn quá mức, giàu protein, thức ăn dư thừa phân hủy và giải phóng khí amoniac độc hại, trong đó kết hợp với cá trong ao hồ, ammonia thải ra có thể tích lũy đến mức nguy hiểm cao trong điều kiện nhất định.
May mắn thay, nồng độ amoniac được một phần 'kiềm chế' hoặc 'giảm tải’ bằng cách chuyển đổi nitrat không độc hại (số 3 -) ion bởi vi khuẩn nitrat hoá. Ngoài ra, amoniac được chuyển đổi từ amoniac độc hại (NH3) thành ion amoni không độc (NH4 +) ở độ pH dưới 8,0.
Hardness / ‘Độ cứng’
Nhiều chất vô cơ (khoáng chất) được hòa tan trong nước. Trong số này, lượng kim loại canxi và kim loại magiê, cùng với ion cacbonat (CO3 -2) là cơ sở cho việc đo độ 'cứng' trong nước. Độ cứng tối ưu cho nuôi trồng thủy sản trong phạm vi từ 40 đến 400 ppm. ‘Nước cứng’ có khả năng giảm ảnh hưởng của kim loại nặng như đồng, kẽm là nói chung là các chất gây độc cho cá. Độ cứng là một yếu tố quan trọng trong việc duy trì trạng thái cân bằng tốt trong ao hồ.
Turbidity / Độ đục
Độ đục của nước liên quan đến số lượng của vật chất nằm lơ lửng trong nước, trong đó độ đục gây trở ngại cho sự thâm nhập ánh sáng trong cột nước. Trong ao nuôi tôm, độ đục của nước có thể là kết quả của các sinh vật phù du hoặc từ hạt đất sét. Độ đục giới hạn trong việc ánh sáng xâm nhập, do đó gây ra hạn chế quang hợp ở lớp dưới cùng. Độ đục trong ao hồ cao có thể gây ra nhiệt độ và oxy hòa tan phân tầng trong ao nuôi tôm.
Sinh vật phù du được mong muốn khi mật độ không quá nhiều, nhưng các hạt đất sét nằm lơ lửng trong ao hồ thì không được mong đợi. Nó có thể gây ra tắc nghẽn mang tôm hoặc gây chấn thương trực tiếp đến các mô của tôm. Sự xói mòn hoặc chính là nước có thể là nguồn gốc của các hạt đất sét nhỏ (1-100 nm) và gây ra độ đục không mong muốn.
Các hạt đẩy nhau do điện tích âm gây ra, điều này có thể được trung hòa bằng điện dẫn đến sự ổn định các hạt. Theo như báo cáo, phèn và sulfat sắt có hiệu quả hơn vôi và thạch cao trong việc loại bỏ độ đục bằng đất sét. Cả hai chất phèn và thạch cao có phản ứng axit và có thể làm giảm độ pH và độ kiềm tổng số, vì vậy việc áp dụng đồng thời với vôi được khuyến khích để duy trì phạm vi phù hợp của độ pH. Tỷ lệ điều trị phụ thuộc vào loại đất.
Redox Potential (Oxidation-Reduction Eh) / Tiềm năng của Ôxy hóa khử (Giảm oxy hóa Eh)
Tiềm năng của oxi hóa khử là một chỉ số báo hiệu trạng thái của quá trình oxy hóa. Nó tương quan với các chất hóa học, chẳng hạn như Ôxy (O2), cabonic (CO2) và khoáng sản nằm trong lớp ưu khí, trong khi H2S, CO2, NH3, H2SO4 và những khí khác nằm trong lớp khí kỵ. Các vi sinh vật có liên quan đến tình trạng của quá trình giảm oxy hóa. Với mức độ giảm ôxy hóa (Eh), nó là dấu hiệu của một trong những thông số cho thấy khả năng hỗ trợ của nước và đất trong nuôi tôm.
Ở nuôi trồng bán thâm canh, vi khuẩn quang hợp (PSB) đóng một vai trò quan trọng thông qua sự hấp thụ và chuyển đổi các chất hữu cơ thành các khoáng chất và chất dinh dưỡng như là một sản phẩm thứ cấp, so với sản xuất cơ bản của mật độ tảo trong ao hồ. PSB tồn tại được là do mức độ oxy thấp và cường độ ánh sang cao và có thể cải thiện đáng kể môi trường nuôi trồng.
(Còn tiếp)
Source (trích lục): WATER QUALITY FOR POND AQUACULTURE
Claude E.Boyd - Department of Fisheries And Allied Aquacultures Auburn University, Alabama 36849 USA
Biên dịch viên: Vân Anh
Ghi rõ nguồn www.2lua.vn khi trích dẫn, sao chép nội dung bài viết này.
Có thể bạn quan tâm

Điều này giải thích lý do tại sao chất lượng nước suy giảm một cách nhanh chóng có thể gây ra tỷ lệ tử vong cao. Để ngăn chặn sự tích tụ các chất hữu cơ hòa tan, thường xuyên thay nước là cần thiết – có thể thay một phần cho đến thay hoàn toàn nước trong ao hồ; , sự ô nhiễm có thể được giảm thiểu bằng cách loại bỏ các hóa chất gây ô nhiễm bằng cách hấp phụ sử dụng than hoạt tính.

Duy trì nhiệt độ tối ưu, biến động ở mức cao, dẫn đến ảnh hưởng nghiêm trọng trên toàn bộ ao và gây ra nhiệt độ cao trên tôm, bùng phát tảo vv (28-32° C)

Bên dưới là những thông tin chi tiết về các phương pháp phân tích và các thiết bị cần thiết cho các thông số hóa lý và các khía cạnh vi sinh của nước và trầm tích trong ao nuôi trồng thủy sản.

Hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS) kết hợp công nghệ xử lý bổ sung ngoài được sử dụng trong hệ thống nuôi trồng thủy sản tái chế nước cục bộ (PRAS), cho phép tái sử dụng 1 số lượng nước đáng kể. Hệ thống RAS này đạt mức độ kiểm soát tốt hơn bất kỳ ứng dụng công nghệ nào khác trong nuôi trồng thủy sản, mang lại hiệu quả sản xuất cao và lợi ích kinh tế đáng kể.

Hệ thống PRAS áp dụng kĩ thuật xử lý nước, cho phép một phần nước trong ao thủy sản được tái chế và đưa trở lại vào ao. Đối với các cơ sở nuôi trồng thủy sản phải đối mặt với tình trạng khan hiếm nước, các vấn đề về tính bền vững, hay có nhu cầu muốn tăng cường sự kiểm soát các điều kiện trong ao, công nghệ tái chế nước này này chính là bước tiến hóa về công nghệ trong hệ thống nuôi trồng thủy sản hiện đại.