Cây Đậu Tương Trên Đất Tủa Chùa

Trồng khảo nghiệm 10 năm trước, đến nay cây đậu tương đã được trồng đại trà trên đất dốc ở Tủa Chùa, mở ra hướng đi mới cho chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nâng cao đời sống đồng bào dân tộc vùng cao.
Thực tế sau 3 năm trồng thí điểm, khảo nghiệm tại xã Mường Báng, thị trấn huyện và tại xã Sính Phình cho thấy, cây đậu tương có thể phát triển ra diện rộng, theo hướng sản xuất hàng hóa ở Tủa Chùa. Với sự giúp đỡ của Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam, Tủa Chùa tuyển chọn được các giống đậu tương như: ĐT84, ĐT96, ĐT2001... cho vụ xuân và thu đông trên chân đất 1 vụ. Sau 3 vụ khảo nghiệm trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt, các chuyên gia của Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam đã xác định đậu tương ĐT84 là giống cho năng suất cao, phù hợp nhất với điều kiện sinh thái, canh tác của Tủa Chùa, năng suất trong thí nghiệm với các điều kiện khó khăn đã đạt 13 - 15 tạ/ha, trong điều kiện thuận lợi có thể đạt 22 - 25 tạ/ha.
Để phát triển cây đậu tương, huyện Tủa Chùa đã tổ chức quy hoạch vùng trồng lúa, ngô, đậu tương, phối hợp triển khai cung cấp giống và kỹ thuật canh tác cây đậu tương ĐT84 và ĐT96 cho bà con nông dân. Hàng năm, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện đã tham mưu cho UBND huyện Tủa Chùa giao kế hoạch trồng đậu tương cho tất cả 12/12 xã, thị trấn; hỗ trợ giống, kỹ thuật, phân bón để nông dân sản xuất đậu tương ở cả 2 vụ: thu đông và xuân hè.
Xá Nhè là xã có diện tích trồng đậu tương lớn nhất của huyện Tủa Chùa. Những năm gần đây, cây đậu tương được nông dân xã Xá Nhè phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Tính đến năm 2011, năng suất đậu tương bình quân ở Xá Nhè ước đạt 13,5 tạ/ha, bình quân 1ha đậu tương đem lại cho người nông dân từ 15 đến 20 triệu đồng, giúp người dân có thêm thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo.
Trước kia, bà con trong xã trồng các giống đậu tương truyền thống nên năng suất thấp, chất lượng không cao. Từ năm 2008 đến nay, bà con đã trồng thử nghiệm các giống đậu tương mới như: Đ2101, ĐT 2008, ĐT 20. Tuy nhiên, giống đậu tương ĐT84 vẫn là giống được bà con trồng đại trà vì phù hợp với đất đai, khí hậu và cho năng suất ổn định nhất.
Mặc dù cây đậu tương ở một số địa phương khác trong tỉnh phát triển không ổn định, có nhiều huyện diện tích giảm đáng kể nhưng với Tủa Chùa, diện tích và năng suất cây đậu tương vẫn được duy trì, mỗi năm xấp xỉ 1.700ha. Cây đậu tương được trồng ở tất cả các xã trong toàn huyện, một số xã trồng nhiều, như: Sính Phình, Tủa Thàng, Xá Nhè và Mường Báng.
Người dân ở các xã phía nam như: Huổi Só, Tủa Thàng, Mường Đun, Mường Báng trồng đậu tương xen ngô, trồng trên đất chân ruộng 1 vụ, đất nương bạc màu trồng ven sông Đà, sông Nậm Mức... đã đem lại thu nhập đáng kể cho bà con, góp phần xóa đói giảm nghèo.
Ông Sùng Sấu Kinh, Phó Chủ tịch UBND xã Xá Nhè cho biết thêm: Trong mấy năm gần đây, xã Xá Nhè trồng trên dưới 300ha đậu tương mỗi năm. Đảng ủy, UBND xã chúng tôi luôn vận động, khuyến khích nhân dân mở rộng diện tích đậu tương. Đây là loại cây góp phần tích cực trong công cuộc xóa đói giảm nghèo; năng suất và chất lượng ổn định, thu hoạch xong không phải mang đi bán đâu xa mà các doanh nghiệp thu mua cho bà con tại chỗ.
Hiệu quả của giống đậu tương mới ở Tủa Chùa đã mở ra triển vọng mới cho việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Cây đậu tương không chỉ cho thu nhập cao hơn một số loại cây khác mà còn là loại cây có tác dụng cải tạo đất rất tốt, phù hợp với nhiều loại đất, lại không phụ thuộc nhiều vào nguồn nước.
Thực tế nhiều năm qua, cây đậu tương đã được bà con nông dân sử dụng để thay thế một số loại cây trồng truyền thống có hiệu quả kinh tế thấp. Tính riêng trong năm 2012, sản lượng đậu tương thu hoạch của huyện Tủa Chùa đạt gần 2.300 tấn. Ngoài đáp ứng nhu cầu sử dụng tại chỗ, bà con nông dân trong huyện đã bán ra thị trường 1.500 tấn đậu tương thương phẩm.
Ông Nguyễn Xuân Huấn, Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tủa Chùa khẳng định: Để tiếp tục phát triển cây đậu tương thì huyện sẽ sử dụng nguồn vốn 135CP giai đoạn 3; vốn Chương trình xây dựng Nông thôn mới để đầu tư máy móc bảo quản sau thu hoạch cho nông dân. Nếu cứ vận động nhân dân trồng mà không đầu tư thì khả năng cây đậu tương sẽ mai một dần.
Trở ngại lớn nhất trong sản xuất đậu tương ở Tủa Chùa là khâu bảo quản, chế biến sau thu hoạch, nhất là đối với cây đậu tương vụ xuân thường thu hoạch vào giữa mùa mưa. Đồng bào khi thu hoạch đậu tương gặp thời tiết mưa nhiều, ẩm thấp lại không có sân phơi, máy sấy khô đậu tương do đó không bảo quản được lâu, làm giảm chất lượng sản phẩm; đồng thời lại bị tư thương lợi dụng ép giá nên hiệu quả sản xuất đậu tương chưa cao.
Có thể bạn quan tâm

Hơn tuần qua, giá lúa tại nhiều tỉnh ĐBSCL tăng thêm 300 - 400 đ/kg. Tuy nhiên, nhiều nông dân ở Vĩnh Long không vui, bởi phần lớn họ đã bán hết lúa từ trước đó.

Nhiều năm qua, phong trào nuôi cá lóc mùa lũ ở xã Tân Hòa Tây, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang thu được nhiều kết quả khả quan và được bà con nông dân vùng lũ nhân rộng. Mô hình này không cần diện tích rộng, người nuôi tận dụng thức ăn sẵn có trong mùa lũ, chi phí đầu tư thấp, lợi nhuận cao. Đặc biệt, mô hình đã giải quyết công ăn việc làm lúc nông nhàn cho bà con vùng lũ.

Đó là Dự án “Hỗ trợ nâng cao chất lượng phát triển sản xuất lợn giống” tại xã Sủng Trái, huyện Đồng Văn, do Phòng NN – PTNT huyện triển khai từ năm 2009; giúp gần 200 hộ có con giống, kinh nghiệm nuôi lợn nái để bán giống cũng như phục vụ nhu cầu nuôi lợn thịt của gia đình. Đã có rất nhiều hộ thoát đói nghèo từ Dự án ý nghĩa này.

Gà sao là đối tượng vật nuôi mới với ý tưởng chuyển đổi cơ cấu vật nuôi có giá trị thu nhập cao cho nông hộ nhằm thay thế dần những vật nuôi thu nhập thấp không ổn định và thường xuyên bị rủi ro dịch bệnh, giá đầu ra bấp bênh. Với mục đính đó, được sự hỗ trợ của Sở Nông nghiệp –PTNT; Trung tâm Khuyến nông Hà Tĩnh xây dựng thành công mô hình gà sao tại xã Cẩm Mỹ (Cẩm Xuyên) và Đức Lạng (Đức Thọ) đạt hiệu quả cao.

Mặc dù đang ở chính vụ nhưng nhiều ao nuôi thủy sản nước lợ vẫn chưa được nông dân cải tạo, thả giống do điều kiện nuôi không thuận lợi. Lựa chọn con giống và kỹ thuật thả nuôi phù hợp là biện pháp cần thiết để nông dân có thể tận dụng những diện tích ao “bỏ hoang”, nâng cao hiệu quả kinh tế.