Cân Bằng Ammonia Trong Ao Nuôi Tôm Sú

Nuôi tôm sú đang là nghề mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân Đồng bằng sông Cửu Long. Hiện nay, nghề nuôi tôm đã tiến đến việc thâm canh hoá ngày càng cao. Do đó, việc quản lý chất lượng nước trong môi trường ao nuôi ngày càng khó khăn, đặc biệt là sự phát sinh tính độc Ammonia (NH3) trong môi trường ao nuôi.
Đặt máy sục khí sao cho chất thải gom tụ ở giữa ao.
NH3 là dạng khí độc cho tôm, cá, nó được hình thành từ quá trình phân huỷ các hợp chất hữu cơ, có thể ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp lên sức khỏe của vật nuôi như: ức chế sự sinh trưởng bình thường của tôm; giảm khả năng chống bệnh; gia tăng tính mẫn cảm của tôm đối với điều kiện không thuận lợi của môi trường.
Có hai phương pháp làm giảm tác hại của NH3:
Điều chỉnh NH3 thông qua độ pH
Trong ao thức ăn dư, ao giàu chất dinh dưỡng, phiêu sinh vật phát triển mạnh làm cho độ pH dao động mạnh trong ngày và tăng cao. Có thể dùng formline ở nồng độ 10-30ppm để giảm pH và cả mật độ phiêu sinh vật. Nếu pH vượt quá 8,5 ngừng bón vôi CaCO3. Sau khi pH giảm ở mức cho phép, cần xử lý thêm vi sinh hoặc vôi xử lý nền đáy để giảm khí độc NH3 và Dolomit ổn định pH.
Quản lý ao nuôi
Ngoài các giải pháp kỹ thuật xử lý NH3 đã trình bày, các giải pháp quản lý ao nuôi có tác dụng rất tốt và đỡ tốn kém hơn, đồng thời giảm được chất lắng tụ và khí độc phát sinh trong ao.
Duy trì mật độ tảo ổn định trong ao, điều chỉnh màu nước sao cho mật độ tảo không thưa và không dày quá.
Sử dụng thức ăn có chất lượng cao, liều lượng vừa đủ.
Loại trừ váng tảo lam nổi trên mặt nước.
Cải tạo kỹ ao nuôi, phơi đáy, cày bừa, rải vôi để NH3 bay hơi vào khí quyển, hạn chế sự tồn lưu trong đất.
Tháo nước ở gần đáy theo định kỳ hoặc liên tục, cấp nước có chất lượng tốt.
Quan trắc, đánh giá lượng NH3 trong ao để sớm có giải pháp khắc phục.
Ngoài ra, cần kết hợp với việc thiết kế ao nuôi và vị trí đặt máy sục khí sao cho các chất thải gom tụ lại ở giữa ao.
Có thể bạn quan tâm

Quản lý việc cho tôm ăn thật chặt chẽ, khi tôm bệnh khả năng bắt mồi giảm do vậy việc cho ăn phải hết sức thận trọng, tránh dư thừa thức ăn dễ dẫn đến vấn đề thêm nghiêm trọng.

Khi nuôi tôm trong mùa mưa chúng ta phải giải quyết hàng loạt vấn đề về sự biến động của các yếu tố môi trường như: pH, độ kiềm, độ trong, nhiệt độ, oxy hoà tan, NH3, NO2 - ….; các bệnh: đóng rong, mềm vỏ, cong thân, phân trắng, làm sao phải điều chỉnh các yếu tố môi trường nằm trong khoảng cho phép để tôm phát triển. Đây chính là những yếu tố ảnh hưởng đến thành công của 1 vụ nuôi.

Nếu sau bước thứ 4 mà vẫn thấy nhiều tôm bệnh hoặc tôm chết trong hai ngày liên tiếp, hãy dùng vó sạch và khô để vớt tôm. Nếu thấy hơn 50% tôm không ăn, cần xem xét thu hoạch.

Chúng tôi về vùng nuôi tôm rộng lớn ở rừng ngập mặn huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau, đúng vào ngày con nước xổ tôm (30 âm lịch). Trên khắp cánh đồng tôm nơi đây, nhiều vuông được xổ nước, để lộ nhiều bụi chà dưới đáy, có bụi vẫn còn xanh lá. Chỉ tay về những vuông tôm có nhiều đống chà, Bắc-một người bạn địa phương đi cùng với tôi, cho biết: “Đó là những nhánh mắm. Nhiều hộ nuôi tôm vùng này thường chặt những nhánh tươi làm thức ăn cho tôm. Vậy mà hộ nào cũng trúng “bể tay”...

Mới đây một nhóm nghiên cứu ở Philipin đã hướng dẫn một trại nuôi tôm thử nghiệm, nuôi luân canh kết hợp tiền xử lý sinh học (biologicalpre-treatment) và nuôi ghép cá rô phi với tôm trong một hệ thống được gọi là Tilapia Water Introduction on Prawn Systems (TIPS). Đây là phương pháp nuôi kết hợp cá rô phi với tôm như một kiểu nuôi luân canh hay một dạng xử lý nước trước bằng tác nhân sinh học như phương pháp nuôi ghép các loài. Ba ao được đưa vào nuôi thử nghiệm. Ban đầu các ao này chỉ nuôi đơn tôm, tuy nhiên do vi khuẩn phát sinh gây ra sự bùng nổ của các vi sinh vật làm tôm bị nhiễm bệnh. Các chủ trại nuôi tôm đã thực hiện nuôi chuyển đổi thay thế đối với các loài cá rô phi. Nuôi luân canh là một phương pháp để làm vệ sinh nước trước khi nuôi một loài khác, làm như vậy để giảm một cách tối đa sự phát sinh mầm bệnh.