Trang chủ / Hải sản / Tôm thẻ chân trắng

Cá nhụ đối tượng nuôi triển vọng cho vùng xâm nhập mặn do biến đổi khí hậu

Cá nhụ đối tượng nuôi triển vọng cho vùng xâm nhập mặn do biến đổi khí hậu
Ngày đăng: 17/09/2015

Nhưng nghề nuôi cá biển còn gặp khó khăn do phụ thuộc vào con giống tự nhiên, cùng với sự phát triển thiếu qui hoạch, kỹ thuật nuôi chưa được chuyển giao cho nông dân, thị trường tiêu thụ chưa ổn định nên nghề nuôi cá biển ở nước ta chưa phát huy hết tiềm năng sẵn có.

Nước ta lại là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng của sự biến đổi khí hậu toàn cầu. Việc nước mặn có khả năng xâm nhập sâu vào nội địa là điều hoàn toàn có thể xảy ra.

Vì vậy, việc đưa một số loài cá biển như cá nhụ có giá trị kinh tế, có khả năng thích nghi biên độ muối rộng, có thể sống trong vùng nước ngọt, lợ và mặn là rất cần thiết.

Cá nhụ (Eleutheronema tetradactylum)  

Cá nhụ (Eleutheronema tetradactylum) còn được gọi là cá chét là loài cá biển có giá trị kinh tế. Cá nhụ được nuôi phổ biến các nước như Thái Lan (chiếm 52% sản lượng), Indonesia (14%), Burundi (13%) và các nước còn lại như Cambodia, Bangladesh, Lào và Malaysia (theo thống kê của FAO năm 2009).

Tổng sản lượng cá nhụ nuôi (nuôi chủ yếu trong nước ngọt) trong năm 2009 vào khoảng hơn 109,7 nghìn tấn với giá trị khoảng 110,6 triệu USD. Thái Lan là nước dẫn đầu về sản lượng nuôi của loài cá này.

Nuôi thương phẩm trong ao và lồng bè được triển khai nuôi thành công tại Singapore. Giá bán trên thị trường vào khoảng 190.000 - 240.000 đ/kg. Tại Malaysia giá cá thương phẩm vào khoảng 154.000 đ/kg. Tại Việt Nam giá bán tại chợ khoảng 60.000 đ/kg.

Cá nhụ được nuôi trong ao đất và lồng bè (giống như hệ thống nuôi cá chẽm) nhưng mật độ cao hơn vào khoảng 3-4 con/m2 (cở cá: 5-7,5 cm). Là loài cá ăn động vật nên chúng có thể ăn thịt lẫn nhau và rất nhạy cảm với nồng độ oxygen thấp.

Khi nuôi trong điều kiện môi trường tối ưu, tỉ lệ sống khá cao 80-90% khi đạt kích thước thu hoạch, với thức ăn công nghiệp của cá chẽm (30% protein) và hệ số FCR trên 2. Cá này có thể phát triển đạt 300-400g trong 10 tháng.

Cá nhụ Thái bình dương (Polydactylus sexfilis) được nuôi thương phẩm phổ biến trong các hệ thống nuôi như trong ao đất, nuôi thâm canh trong bể tròn, hệ thống raceway và nuôi trong lồng bè.

Sử dụng thức ăn viên công nghiệp có hàm lượng đạm cao 50% và lipid 12%, hệ số FCR 0,59-0,68.

Tỉ lệ sống đạt trên 95%. Khi nuôi loài cá này cần duy trì hàm lượng oxy hòa tan trên 5 ppm.

 Tags: ca, ca nhu, nuoi ca nhu, nuoi trong thuy san, thuy san, mo hinh nuoi ca


Có thể bạn quan tâm

Bệnh trùng bánh xe Bệnh trùng bánh xe

1. Dấu hiệu bệnh lý - Khi mới mắc bệnh, trên thân, mang cá có nhiều nhầy màu hơi trắng, đục, ở dưới nước thấy rõ hơn so với khi bắt cá lên cạn.

16/06/2015
Bệnh nấm mang ở cá Bệnh nấm mang ở cá

1. Dấu hiệu bệnh lý - Các bào tử nấm bám vào mang phát triển thành các sợi nấm, phá hoại các tổ chức mang, lấp kín các mao huyết quản làm mất tác dụng hô hấp của mang. Mang chuyển màu hồng nhạt, hoặc trắng bạc.

16/06/2015
Bệnh nấm thuỷ mi Bệnh nấm thuỷ mi

1. Dấu hiệu bệnh lý - Bệnh nhẹ rất khó phát hiện bằng mắt thường, khi phát hiện được bằng mắt thường thì bệnh đã nặng.

16/06/2015
Bệnh trùng quả dưa Bệnh trùng quả dưa

1. Dấu hiệu bệnh lý - Các vị trí bám của trùng sẽ hình thành nhiều đốm lấm tấm màu trắng đục có kích thước nhỏ, có thể nhìn thấy bằng mắt thường.

16/06/2015
Bệnh trùng mỏ neo Bệnh trùng mỏ neo

1. Dấu hiệu bệnh lý - Trùng ký sinh trên toàn bộ phần phía ngoài cơ thể cá như da, vây, đuôi, mắt, mũi, xoang miệng và mang, hút chất dinh dưỡng và gây nên những vết thương chảy máu.

16/06/2015