Cá nhụ đối tượng nuôi triển vọng cho vùng xâm nhập mặn do biến đổi khí hậu

Nhưng nghề nuôi cá biển còn gặp khó khăn do phụ thuộc vào con giống tự nhiên, cùng với sự phát triển thiếu qui hoạch, kỹ thuật nuôi chưa được chuyển giao cho nông dân, thị trường tiêu thụ chưa ổn định nên nghề nuôi cá biển ở nước ta chưa phát huy hết tiềm năng sẵn có.
Nước ta lại là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng của sự biến đổi khí hậu toàn cầu. Việc nước mặn có khả năng xâm nhập sâu vào nội địa là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
Vì vậy, việc đưa một số loài cá biển như cá nhụ có giá trị kinh tế, có khả năng thích nghi biên độ muối rộng, có thể sống trong vùng nước ngọt, lợ và mặn là rất cần thiết.
Cá nhụ (Eleutheronema tetradactylum)
Cá nhụ (Eleutheronema tetradactylum) còn được gọi là cá chét là loài cá biển có giá trị kinh tế. Cá nhụ được nuôi phổ biến các nước như Thái Lan (chiếm 52% sản lượng), Indonesia (14%), Burundi (13%) và các nước còn lại như Cambodia, Bangladesh, Lào và Malaysia (theo thống kê của FAO năm 2009).
Tổng sản lượng cá nhụ nuôi (nuôi chủ yếu trong nước ngọt) trong năm 2009 vào khoảng hơn 109,7 nghìn tấn với giá trị khoảng 110,6 triệu USD. Thái Lan là nước dẫn đầu về sản lượng nuôi của loài cá này.
Nuôi thương phẩm trong ao và lồng bè được triển khai nuôi thành công tại Singapore. Giá bán trên thị trường vào khoảng 190.000 - 240.000 đ/kg. Tại Malaysia giá cá thương phẩm vào khoảng 154.000 đ/kg. Tại Việt Nam giá bán tại chợ khoảng 60.000 đ/kg.
Cá nhụ được nuôi trong ao đất và lồng bè (giống như hệ thống nuôi cá chẽm) nhưng mật độ cao hơn vào khoảng 3-4 con/m2 (cở cá: 5-7,5 cm). Là loài cá ăn động vật nên chúng có thể ăn thịt lẫn nhau và rất nhạy cảm với nồng độ oxygen thấp.
Khi nuôi trong điều kiện môi trường tối ưu, tỉ lệ sống khá cao 80-90% khi đạt kích thước thu hoạch, với thức ăn công nghiệp của cá chẽm (30% protein) và hệ số FCR trên 2. Cá này có thể phát triển đạt 300-400g trong 10 tháng.
Cá nhụ Thái bình dương (Polydactylus sexfilis) được nuôi thương phẩm phổ biến trong các hệ thống nuôi như trong ao đất, nuôi thâm canh trong bể tròn, hệ thống raceway và nuôi trong lồng bè.
Sử dụng thức ăn viên công nghiệp có hàm lượng đạm cao 50% và lipid 12%, hệ số FCR 0,59-0,68.
Tỉ lệ sống đạt trên 95%. Khi nuôi loài cá này cần duy trì hàm lượng oxy hòa tan trên 5 ppm.
Tags: ca, ca nhu, nuoi ca nhu, nuoi trong thuy san, thuy san, mo hinh nuoi ca
Có thể bạn quan tâm

Hệ thống xử lý nước Silver Bullet đã được chứng minh chính là chìa khóa trong việc kiểm soát vi khuẩn Vibrio Parahaemolyticus (V. parahaemolyticus). Công nghệ Silver Bullet làm giảm thành công số lượng vi khuẩn Vibrio Parahaemolyticus, duy trì số lượng vi khuẩn ở mức thấp và thúc đẩy sự sống còn của tôm.

Người nuôi cũng cần phải lưu ý rằng, khi tôm nổi đầu vào sáng sớm - hoặc cũng có thể nổi đầu vào thời điểm khác trong ngày – thì điều đó có nghĩa là hàm lượng ôxy hoà tan trong ao đang rất thấp (dưới 2 ppm), hàm lượng ôxy hòa tan ở mức 2 – 3 ppm không làm cho tôm nổi đầu, chúng chỉ làm cho tôm nuôi chậm lớn, thậm chí rất chậm lớn.

Vi bào tử trùng Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) là một bênh vi bào tử ký sinh và lần đầu tiên được mô tả và đặt tên từ loài tôm sú loại to hoặc tôm sú đen P.monodon từ Thái Lan năm 2009 (Tourtip et al. 2009. J. Invertebr. Pathol. 102: 21-29).

Hiện nay tình hình dịch bệnh trên tôm nuôi vẫn còn xảy ra nhiều nơi. Kết quả quan trắc môi trường cho thấy, mẫu giáp xác ngoài tự nhiên còn phát hiện dương tính đối với bệnh đốm trắng khá cao.

Ôxy là một thông số môi trường ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển và sinh sản nhờ vào tác động trực tiếp của nó đến lượng tiêu thụ thức ăn, sự trao đổi chất của vật nuôi và tác động gián tiếp của nó đến điều kiện môi trường.