Bệnh giun đũa ở gà
Giun có màu vàng, giun đực dài từ 3-10 cm, giun cái dài từ 7-12 cm; trứng có vỏ dầy , dạng hình bầu dục kích thước 70 x 90 micrometter; trứng có sức đề kháng tốt và tồn tại lâu trong môi trường.
Giun ký sinh trong ruột non của gà, đôi khi ký sinh ở ống dẫn mật.
Chu trình phát triển của giun đũa ở gà :
Giun đũa ở gà có chu trình phát triển trực tiếp, giun cái trưởng thành đẻ trứng theo phân thải ra môi trường gặp điều kiện nhiệt độ, ẩm độ thích hợp trứng sẽ phát triển thành trứng gây nhiễm; thời gian này mất khoảng 5-25 ngày.
Gà ăn phải trứng này qua thức ăn, nước uống vào dạ dày sẽ nở ra ấu trùng và đi xuống ruột non.
Từ 1-2 giờ sau khi ăn phải trứng, ấu trùng sẽ xâm nhập tuyến ruột và phát triển ở đó trong 19 ngày; sau đó ấu trùng trở lại lòng ruột sống và phát triển đến giai đoạn trưởng thành.
Thời gian từ lúc gà ăn phải trứng gây nhiễm đến khi giun trưởng thành ký sinh ở ruột non khoảng 35-58 ngày.
Bệnh lý :
Gà bị ảnh hưởng trong giai đoạn ấu trùng gây xuất huyết niêm mạc ruột, nơi ký sinh của ấu trùng ruột bị giãn, sưng và dầy lên, thành ruột bị phù tổn thương tạo điều kiện cho vi trùng đường ruột nhất là E .coli phát triển làm cho gà bệnh nặng hơn.
Giun đũa gây bệnh nặng ở gà con hơn ở gà lớn; thời gian phát triển của giun đũa ở gà con thường từ 30-35 ngày, trong khi ở gà lớn là 50 ngày.
Gà trên 3 tháng tuổi có sức đề kháng tốt với khả năng nhiễm giun đũa ít hơn so với gà dưới 3 tháng tuổi.
Gà nuôi chăn thả như gà thả vườn hay nuôi trên nền trấu như cách chăn nuôi của người dân ở nước ta rất dễ bị nhiễm giun đũa gà.
Tác hại của bệnh: Gà bị nhiễm nặng gây mất máu, niêm mạc, mồng nhợt nhạt, chân khô, ăn giảm, tiêu chảy, còi cọc, chậm lớn, tiêu tốn nhiều thức ăn cho 1kg tăng trọng.
Khi bị nhiễm nặng gà thường chết do tắc ruột hay tắc ống dẫn mật và có thể giảm tăng trọng đến 30%.
Chẩn đoán:
- Trên gà sống: Thường là xét nghiệm phân tìm trứng giun đũa.
- Mổ khám: Ở ruột non tìm giun đũa là phương pháp cho kết quả chính xác nhất.
Nguồn truyền lây: Gà lớn bị nhiễm giun đũa thải trứng ra ngoài môi trường là nguồn truyền lây cho gà con qua qua thức ăn, nước uống;
Châu chấu và giun đất có thể mang trứng giun đũa để lây nhiễm cho gà.
Phòng bệnh:
- Nên nuôi gà trên sàn.
- Gà nuôi trên nền nên thường xuyên thay chất độn chuồng.
- Thường xuyên vệ sinh máng ăn, máng uống.
- Nuôi cách ly gà con với gà lớn.
- Để giảm ô nhiễm trứng giun trong môi trường cần định kỳ tẩy giun cho gà.
- Gà con bắt đầu tẩy giun đũa ở 4-6 tuần tuổi, sau đó mỗi tháng tẩy 1 lần.
- Gà lớn trên 3 tháng tuổi 3 tháng tẩy 1 lần.
Điều trị:
- Piperazine: Cho uống hoặc trộn vào thức ăn, liều 50-100 mg / kg trọng gà.
-Tetramisol: Cho uống hay trộn thức ăn, liều 40 mg / kg trọng lượng gà. Thuốc có hiệu quả tẩy giun từ 89% - 100%.
- Levamisol: Cho uống liều 30-60 ppm .
- Albendazole, Mebendazole có hiệu quả tốt đối với giun đũa gà.
- Fenbendazole: Cho uống, hiệu quả tẩy giun rất cao từ 99,2-100%
- Lvermectine: Tiêm dưới da, liều 0,3 mg / kg thể trọng, hiệu quả tẩy giun từ 90,2%-95%, thuốc có ưu điểm tẩy được giun non.
Có thể bạn quan tâm
Bệnh do virus nhóm cận họ Oncoviridae thuộc họ Retroviridae gây ra, phát triển tốt trên phôi gà và môi trường tế bào. Virus tồn tại được trong nhiều tháng ở 70C. Gà bệnh thải dãi rớt, phân làm lây bệnh, đặc biệt là gà con có thể bị nhiễm bệnh từ gà mẹ truyền qua trứng.
Bệnh Ornithobacterium là một bệnh nhiễm trùng của gà và gà tây gây ra do vi khuẩn Ornithobacterium Rhinotracheale (ORT). Mức độ nghiêm trọng của bệnh phụ thuộc vào khả năng gây bệnh của các chủng virus, vi khuẩn kế phát, các vấn đề thông gió, độ tuổi bị nhiễm bệnh và đặc biệt là thời gian can thiệp chữa trị có kịp thời hay không cùng với đó là việc dùng thuốc đúng và phù hợp.
Để đánh giá phẩm chất đàn gà cần đánh giá chất lượng thịt từng bộ phận của thân thịt. Mổ gà khảo sát và xác định thành phần thân thịt gồm có: