Bảo vệ tôm nuôi mùa lạnh
Trong nuôi tôm, các yếu tố môi trường đã và đang ngày càng ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của tôm, đặc biệt trước diễn biến của thời tiết lạnh giao mùa như hiện nay. Do đó, người nuôi tôm cần nắm bắt thông tin, có giải pháp cụ thể để bảo vệ tôm nuôi tránh những thiệt hại xảy ra, góp phần nâng cao hiệu quả cho vụ nuôi.
Bón vôi, chế phẩm sinh học cho vuông nuôi giúp tôm phát triển ổn định trong mùa lạnh. Ảnh: Hoàng Diệu
Theo số liệu thống kê của Sở NN&PTNT Cà Mau đến thời điểm này tổng diện tích đang thả nuôi tôm của toàn tỉnh là 279.648 ha trên 3 đối tượng tôm sú, TTCT và tôm càng xanh. Do ảnh hưởng của thời tiết làm môi trường nuôi tôm bị thay đổi đã gây thiệt hại trên tôm nuôi, nhất là TTCT thâm canh và siêu thâm canh (343 ha), tôm sú quảng canh (1.872 ha).
Nguyên nhân được ngành chuyên môn xác định, do thời tiết bước vào mùa lạnh, nhiệt độ có phần giảm thấp, gió bắt đầu nhiều hơn và kèm theo một chút hanh khô. Đối với bà con nuôi tôm có phần lo lắng bởi vì tôm là loài động vật biến nhiệt, nhạy cảm với sự thay đổi nhiệt độ của môi trường. Theo đó, nhiệt độ thích hợp cho tôm phát triển từ 28 – 30oC, nếu nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp sẽ ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng và phát triển của tôm nuôi nói chung, tôm sẽ ăn ít hoặc ngừng ăn, thậm chí là chết, từ đó dẫn đến tỷ lệ hao hụt và ảnh hưởng đến hiệu quả của vụ nuôi.
Kỹ sư Lê Thi Thơ, cán bộ Trung tâm Khuyến nông Cà Mau cho biết: “Khi nhiệt độ xuống thấp xuất hiện dấu hiệu bệnh như đỏ thân, đốm trắng, tạo điều kiện cho các loại virus này phát triển gây thiệt hại cho tôm nuôi thông qua hình thái như mòn đuôi, cụt râu…”.
Theo đó, Kỹ sư Lê Thi Thơ khuyến khích người dân cần gia cố bờ ao nuôi chắc chắn, tránh mọi rò rỉ, đảm bảo duy trì mực nước từ 0,5 m trở lên, cần bổ sung định kỳ phân hữu cơ sinh học để tạo và duy trì thức ăn tự nhiên trong ao, bổ sung vôi CaCo3, vôi Dolomit để tăng cường khoáng chất trong nước để đảm bảo tôm luôn cứng vỏ. Theo đó, việc bổ sung chế phẩm sinh học định kỳ trong suốt vụ nuôi để ổn định môi trường và làm sạch nền đáy vuông nuôi.
Để việc nuôi tôm mùa lạnh đạt hiệu quả, người dân cần xác định nước là môi trường sống chính của tôm, do đó, nếu không xử lý nước đúng quy trình kỹ thuật sẽ dễ làm lây lan mầm bệnh tồn trong nước cho trong vùng nuôi; ngoài ra việc cấp, thoát nước không đúng thời điểm (chẳng hạn như nhiệt độ nước quá lạnh) cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm nuôi.
Kỹ sư Lê Thi Thơ lưu ý thêm: “Một vấn đề quan trọng khác trong nuôi tôm mùa lạnh mà bà con cần lưu ý, đó là vấn đề thức ăn tự nhiên (TATN) trong ao. Khi nhiệt độ giảm, ít có nắng hoặc ánh nắng không gay gắt sẽ làm giảm sự phát triển của tảo, từ đó ảnh hưởng đến lượng TATN trong ao tôm. Vậy trong trường hợp này, bà con cần phải bổ sung TATN bằng cách bỗ sung các loại chế phẩm sinh học, các loại khoáng vi lượng để duy trì dinh dưỡng cho môi trường ao nuôi ổn định”.
Trong nuôi tôm thâm canh và siêu thâm canh, việc cho ăn và quản lý thức ăn trong mùa lạnh cũng phải hợp lý, vì nếu không làm tốt khâu này, việc dư thừa thức ăn sẽ gây nên tình trạng chất lượng nước xấu đi, dễ phát sinh khí độc H2S, NH3… làm tôm khó lột xác, gây hoạt hóa cho mang tôm, tạo điều kiện cho các loại vi khuẩn, nấm xâm nhập gây ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm nuôi.
Kỹ sư Lê Thi Thơ khuyến cáo, công tác chuẩn bị nước đầu vào phải đúng kỹ thuật, phải duy trì nước trong ao ương từ 0,7 – 0,8 m và trong ao nuôi từ 1,2 – 1,5 m. Theo đó, khi nhiệt độ thấp về đêm ôxy trong ao nuôi sẽ thấp nên bà con nuôi tôm cần tăng cường chạy quạt; vào buổi chiều tôm thường lột xác nên chú ý tăng cường ôxy cho tôm, tăng cường men vi sinh giúp môi trường ao nuôi sạch. Do thời tiết lạnh, tôm giảm trao đổi chất nên người nuôi tôm cần giảm lượng thức ăn khoảng 20% và nên duy trì chỉ số pH trong ngưỡng thích hợp 7,5 – 8,5.
Việc quản lý tốt tôm nuôi mùa lạnh không những giúp cho mô hình nuôi của nông dân mang lại hiệu quả, nâng cao thu nhập cho gia đình mà còn góp phần đáp ứng nguồn nguyên liệu cho thị trường tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu khi Tết Nguyên đán đang đến gần.
Có thể bạn quan tâm
Lươn là một trong những loài thủy sản có sức chịu đựng cao, nhưng khi thu gom giống và vận chuyển không đúng theo đúng yêu cầu kỹ thuật nên lươn dễ bị sốc
Lươn giống từ nguồn sinh sản bán nhân tạo: Kích thước lươn giống từ 5- 10 g/con. Mật độ thả: 60 – 80 con/m2.
Giải pháp sử dụng chế phẩm vi sinh trong nuôi thủy sản được khuyến nông Hưng Yên chú trọng xây dựng nhiều mô hình nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường nuôi