Phương Pháp Kiểm Tra Đánh Giá Chất Lượng Tôm Giống
1. Giới thiệu
Hiện nay công nghiệp nuôi tôm sú đang được phát triển một cách nhanh chóng và trở thành mũi nhọn kinh tế cho các vùng Duyên Hải. Là đối tượng mà nước ta cũng như các nước khác trên thế giới quan tâm. Tuy nhiên công việc này đã trãi qua những khủng hoảng nghiêm trọng.
Đài Loan 1987 là một ví dụ điển hình, Trung Quốc năm 1994 sản lượng tôm chỉ đạt 20% so với trước. Qua nhiều nghiên cứu cho thấy rằng giống co chất lượng kém là một trong những nguyên nhân đầu tiên gây ra những thiệt hại nghiêm trọng. Vì vậy việc kiểm soát được chất lượng giống sẽ góp phần phát triển được công nghiệp nuôi tôm lâu dài và bền vững.
2. Mục đích:
- Giúp cho sản xuất giống biết được chất lượng của đàn tôm mà mình sản xuất là tốt hay xấu. Từ đó có thể đánh giá được kết quả của các biện pháp kỹ thuật mà mình đang áp dụng để không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất và cải tiến chất lượng giống tốt hơn.
- Giúp cho người tiêu thụ giống biết được chất lượng của đàn tôm mà mình định mua nhằm tránh được rủi ro đồng thời giúp cho người nuôi tôm ổn định hơn.
3. Ý nghĩa:
Có được phương pháp kiểm tra. Đánh giá chất lượng giống tốt là một việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng trong nghiên cứu cũng như trong thực tiễn sản xuất. Bởi vì chất lượng giống có ảnh hưởng rất lớn đến công nghiệp nuôi tôm trên toàn thế giới.
Bản thân người sản xuất cũng như người tiêu thụ giống phải ý thức được tầm quan trọng của chất lượng giống tốt như thế nào mới thúc đẩy được nhiều giải pháp kỹ thậut để cải tiến quy trình mang lại ý nghĩa thiết thực cho nghề nuôi tôm hiện nay và cho tương lai.
4. Một số phương pháp kiểm tra, đánh giá chất lượng tôm giống.
Có rất nhiều phương pháp để kiểm tra chất lượng tôm giống nhưng trong phạm vi áp dụng sản xuất đại trà với khả năng, yêu cầu về trang thiết bị còn hạn chế rất nhiều. Do đó trong nội dung này chúng tôi chỉ đưa ra một số phương pháp đơn giản, dễ áp dụng, ít tốn kém mà vẫn có thể kiểm tra. Đánh giá được tôm giống một cách tương đối chính xác.
4.1 Phương pháp trực quan bằng mắt thường:
- Chiều dài ≥ 11mm (từ mũi chủy đến chót đuôi), tôm có cỡ đồng đều, độ lệch không quá 15%.
- Ngoại hình: Hình thái cấu tạo ngoài hoàn chỉnh, chủy, râu thẳng, đuôi xòe.
- Màu sắc:Xám sáng, vỏ bóng mượt.
- Trạng thái hoạt động: Phản ứng nhanh nhẹn khi có tác động đột ngột.
- Tính ăn: Bắt mồi đều đặn, ruột đầy.
4.2. Phương pháp trực quan trên kính hiển vi:
Đặt tôm trong đĩa petri hoặc trên lame có chứa 1 giọt nước biển.
Quan sát mẫu vật trên kính hiển vi có độ phóng đại 100X hoặc 150X.
Quan sát các phụ bộ, như chủy, râu A1, A2, chân ngực, chân bụng, chân đuôi, đốt đuôi.
* Kết quả xem hình Xa, Xb, Xc (X = 1 đến 14) - Những hình Xa tôm bình thường.
- Những hình Xb, Xc là các phụ bộ không tốt, có dấu hiệu tổn thương.
- Quan sát các loài nguyên sinh động vật sống ký sinh.
- Kiểm tra vùng xung quanh mắt, mang, chân ngực, chân bụng tìm ra những loài nguyên sinh động vật sống ký sinh.
- Quan sát bề mặt của vỏ tìm kiếm các tổn thương trên vỏ.
4.3. Phương pháp tính tỷ lệ cơ/ ruột:
Tính tỷ lệ cơ / ruột nhằm biết được khả năng tăng trưởng của tôm có tốt hay không. Lấy mẫu tôm quan sát trên kính hiển vi.
- Quan sát tổng số răng/ chủy (có từ 4-6 răng là được) tương đương với Postlarvae từ 14 - 20 ngày tuổi.
- Quan sát đường kính ruột và đường kính cơ của đốt bụng thứ 6
- Tính tỷ lệ cơ ruột = b/a.
* Kết quả:
Tỉ lệ b/a tương đương 4/1 là tốt (tôm khỏe mạnh tăng trưởng nhanh)
Tỉ lệ b/a
4.4. Phương pháp thử gây sốc
Đây là thử nghiệm cho tôm bị sốc bằng cách hạ độ mặn đột ngột hoặc lưu trong dung dịch có chứa Formalin nhất định để kiểm tra khả năng chịu đựng của tôm giống.
- Phương pháp thử gây sốc bằng cách hạ độ mặn đột ngột 15 ‰ . Lấy khoảng 20 mẫu tôm cần kiểm tra cho vào cốc thủy tinh 300ml. tính toán lượng nước ngọt cần cho vào, bắt đầu tín hành hạ đột ngột độ mặn 15 ‰ theo dõi trong 2h nếu tỷ lệ sống 100% là đạt yêu cầu.
- Phương pháp thử gây sốc bằng Formalin 100ppm. Tương tự như trên lấy 20 mẫu tôm cần kiểm tra cho vào cốc thủy tinh 300ml. Tính toán lượng Formalin cần cho vào bắt đầu tiến hành theo dõi tôm trong dung dịch có nồng độ Formalin trong 2h nếu tỷ lệ sống 100% là đạt yêu cầu.
Related news
Quản lý việc cho tôm ăn thật chặt chẽ, khi tôm bệnh khả năng bắt mồi giảm do vậy việc cho ăn phải hết sức thận trọng, tránh dư thừa thức ăn dễ dẫn đến vấn đề thêm nghiêm trọng.
Khi nuôi tôm trong mùa mưa chúng ta phải giải quyết hàng loạt vấn đề về sự biến động của các yếu tố môi trường như: pH, độ kiềm, độ trong, nhiệt độ, oxy hoà tan, NH3, NO2 - ….; các bệnh: đóng rong, mềm vỏ, cong thân, phân trắng, làm sao phải điều chỉnh các yếu tố môi trường nằm trong khoảng cho phép để tôm phát triển. Đây chính là những yếu tố ảnh hưởng đến thành công của 1 vụ nuôi.
Nếu sau bước thứ 4 mà vẫn thấy nhiều tôm bệnh hoặc tôm chết trong hai ngày liên tiếp, hãy dùng vó sạch và khô để vớt tôm. Nếu thấy hơn 50% tôm không ăn, cần xem xét thu hoạch.
Chúng tôi về vùng nuôi tôm rộng lớn ở rừng ngập mặn huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau, đúng vào ngày con nước xổ tôm (30 âm lịch). Trên khắp cánh đồng tôm nơi đây, nhiều vuông được xổ nước, để lộ nhiều bụi chà dưới đáy, có bụi vẫn còn xanh lá. Chỉ tay về những vuông tôm có nhiều đống chà, Bắc-một người bạn địa phương đi cùng với tôi, cho biết: “Đó là những nhánh mắm. Nhiều hộ nuôi tôm vùng này thường chặt những nhánh tươi làm thức ăn cho tôm. Vậy mà hộ nào cũng trúng “bể tay”...
Mới đây một nhóm nghiên cứu ở Philipin đã hướng dẫn một trại nuôi tôm thử nghiệm, nuôi luân canh kết hợp tiền xử lý sinh học (biologicalpre-treatment) và nuôi ghép cá rô phi với tôm trong một hệ thống được gọi là Tilapia Water Introduction on Prawn Systems (TIPS). Đây là phương pháp nuôi kết hợp cá rô phi với tôm như một kiểu nuôi luân canh hay một dạng xử lý nước trước bằng tác nhân sinh học như phương pháp nuôi ghép các loài. Ba ao được đưa vào nuôi thử nghiệm. Ban đầu các ao này chỉ nuôi đơn tôm, tuy nhiên do vi khuẩn phát sinh gây ra sự bùng nổ của các vi sinh vật làm tôm bị nhiễm bệnh. Các chủ trại nuôi tôm đã thực hiện nuôi chuyển đổi thay thế đối với các loài cá rô phi. Nuôi luân canh là một phương pháp để làm vệ sinh nước trước khi nuôi một loài khác, làm như vậy để giảm một cách tối đa sự phát sinh mầm bệnh.