Ương tôm giống trong nhà, giảm tỉ lệ mắc bệnh, cải thiện tỉ lệ sống
Sản xuất tôm giống sạch bệnh (SPF) hoặc kháng bệnh (SPR) là rất cần thiết cho sự phát triển không ngừng của ngành công nghiệp nuôi tôm.
Tóm tắt: Nước mang tính axit có pH thấp hơn và mang tính kiềm có pH cao hơn. Mức pH lý tưởng đối với hầu hết các loài thủy sản nằm trong khoảng 6.0 đến 8.5. Các giá trị pH thấp hơn có thể dẫn đến tốc độ tăng trưởng và tỉ lệ sống giảm, dễ bị bệnh nhiều hơn.
Nghề nuôi trồng thủy sản nói chung và nghề nuôi tôm nói riêng đã rất quen thuộc với phương pháp nuôi xử lý vi sinh.
Tôm nuôi ở độ mặn cao dễ bị dịch bệnh, nhất là các bệnh virus đốm trắng, đầu vàng, vi khuẩn phát sáng và EMS. Vì vậy, người dân đang có xu hướng nuôi tôm ở độ mặn thấp (<10‰). Với loại hình nuôi này, cần lưu ý một số vấn đề.
Sử dụng chế phẩm từ vi sinh vật hữu ích là hướng đi có ý nghĩa thực tiễn đối với người nuôi tôm, để bảo vệ môi trường và đảm bảo hiệu quả sản xuất.
Theo dõi vi khuẩn Vibrio ở ấu trùng tôm đã xác định mối liên quan giữa màu sắc gan tụy, hàm lượng vi khuẩn và các dấu hiệu của hội chứng tôm chết sớm.
Vi khuẩn có lợi như các dòng Bifidobacterium, Lactobacillus, Enterococcus, Clostridium butyricum, Lactobacillus sporogenes, Bacillus subtilis và Bacillus polyfermenticus đã được sử dụng cho các mục đích y tế ( men tiêu hóa ) trong điều trị rối loạn đường ruột.
Chúng tôi đánh giá các tác động trong việc cho ăn thức ăn bổ sung là các tế bào chết của loài vi khuẩn có lợi probiotic Bacillus coagulans đến hiệu suất tăng trưởng, tỷ lệ sống, các enzym tiêu hóa và chất lượng thịt của tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei
Tóm tắt: Căn cứ vào kết quả một nghiên cứu ở Peru, các tác giả đã nhận thấy lượng lớn vôi sống và vôi tôi cần thiết để kiểm soát dịch bệnh Vibriosis một cách hiệu quả trong các ao nuôi tôm làm tăng pH nước và gây căng thẳng cho thủy sản nuôi.
Mục tiêu: đánh giá hiệu quả của 12 sản phẩm men vi sinh thương phẩm ở Thái Lan được sử dụng trong nuôi tôm biển, mức chấp nhận về định lượng vi sinh vật probiotic 106 CFU/g trong các sản phẩm.
Probiotics (men vi sinh, men tiêu hóa) có tác dụng như là các tác nhân kháng vi khuẩn/ virút trong nuôi tôm.
Trong vài năm qua, các quy trình thực hành quản lý tốt hoặc BMP đã và đang được đồng nhất hóa và phát triển trên cơ sở khoa học để bảo vệ môi trường, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế đối với ngành nuôi tôm.
Trong vài năm qua, các quy trình thực hành quản lý tốt hoặc BMP đã và đang được đồng nhất hóa và phát triển trên cơ sở khoa học để bảo vệ môi trường, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế đối với ngành nuôi tôm.
Nuôi tôm khắp nơi trên thế giới bị sụt giảm do dịch bệnh, cụ thể như vi khuẩn phát sáng Vibrio và / hoặc virút.
Nitơ amoniac xuất hiện trong các hệ thống nuôi trồng thủy sản là chất thải của quá trình chuyển hóa protein bởi động vật thủy sản và quá trình suy thoái các chất hữu cơ, hoặc trong phân bón nitơ.
Gần như không thể hoàn toàn loại hết vibrio khỏi các ao. Hơn nữa, bởi đa phần vibrio là lành tính và phục vụ cho các mục đích có ích, việc loại bỏ chúng mở ra chỗ cho các loài khác có thể không lành tính.
Việc thực hiện quy trình thực hành nuôi trồng thủy sản tốt (GAP) và duy trì an toàn sinh học phụ thuộc nhiều vào hệ thống nuôi, loài tôm, lịch thời vụ thả giống khuyến nghị và việc quản lý nuôi của các nước / khu vực.
Do bùng phát dịch bệnh được thừa nhận làm kìm hãm nghiêm trọng trong sản xuất và thương mại nuôi trồng thủy sản và khi sự phát triển của đề kháng kháng sinh đã trở thành mối quan tâm.
Duy trì môi trường nuôi tốt là một trong những nguyên tắc cơ bản kiểm soát dịch bệnh, giảm stress (sự căng thẳng làm giảm sức đề kháng bệnh) cho thủy sản nuôi.
Probiotic ( men vi sinh, men tiêu hóa) đã và đang được sử dụng trong nuôi tôm qua nhiều thập kỷ, nhưng câu hỏi “nó có hoạt động không” vẫn tồn tại dai dẳng.