Nuôi Ong Mật Ở Các Xã Nghèo Bình Liêu (Quảng Ninh)

Huyện Bình Liêu (Quảng Ninh) có diện tích tự nhiên 47.510ha, trong đó đất rừng, đất lâm nghiệp chiếm tới 42.510ha.
Trong những năm gần đây, huyện chú trọng phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp tập trung. Hiện huyện có 156ha dong riềng, 3.500ha hồi, 100ha sở, đang có hướng mở rộng diện tích trồng sở lên 1.700ha, cùng hàng trăm ha trồng lúa, ngô, cây ăn quả như nhãn, ổi, vải, thanh long v.v..
Các loại cây này có một lượng hoa lớn, để từ đó hình thành các làng nuôi ong mật ở Bình Liêu. Đặc biệt các khu rừng hồi tập trung, trồng từ 13-15 năm mới cho thu hoạch hoa và có thể khai thác trong khoảng 20 năm.
Tình Húc là xã nuôi nhiều ong ở Bình Liêu. Trong chương trình “Mỗi xã, phường một sản phẩm”, xã đã chọn “Mật ong Tình Húc” làm sản phẩm của xã mình. Ong được nuôi nhiều ở các bản Nà Kẻ, Nà Làng, Pắc Liềng, Khe Cóc với 39 hộ nuôi hơn 200 tổ ong.
Để giúp các hộ nuôi phát triển tốt nghề nuôi ong, xã đã mở 2 lớp hướng dẫn kỹ thuật nuôi ong và giúp vay vốn lãi suất ưu đãi từ Ngân hàng CSXH huyện. Đi cùng anh cán bộ xã Tình Húc, chúng tôi đến bản Pắc Liềng, là một trong những điểm nuôi ong nhiều nhất của xã.
Ông Lò Phúc Vân, là người nuôi nhiều ong ở bản, cho biết: Trước đây ở Pắc Liềng có nhiều người nuôi ong hơn bây giờ. Có một thời tưởng như mất nghề, bây giờ đang dần khôi phục.
Ông Vân hiện có 40 tổ ong, còn đa phần bà con trong bản nuôi từ 2-10 tổ để dễ chăm sóc. Thường thì một tổ ong có thể lấy được khoảng 7 lít mật/năm, giá bán tại nhà 250.000 đồng/lít. Có tổ ong khai thác được mật khoảng 20 năm.
Người dân Pắc Liềng và hầu hết các hộ nuôi ong ở Bình Liêu có kiểu nuôi ong khá độc đáo không giống các địa phương khác, là nuôi ong trong thân cây gỗ to được khoét rỗng ở giữa, 2 đầu bịt kín chỉ để lỗ nhỏ vừa con ong chui ra, vào. Tổ ong được gắn lên bờ tường nhà mình để phòng tránh ong dữ đến ăn mật, đánh đuổi ong nhà.
Một thời, khu rừng tự nhiên ở xã Hoành Mô bị thu hẹp dần, thay thế bằng các rừng keo. Người ta trồng keo chủ yếu là lấy gỗ, nên khi cây keo chưa ra hoa (keo trồng hơn 10 năm mới có hoa) người trồng đã khai thác.
Khai thác xong vụ keo, người ta lại đốt rừng trước khi trồng tiếp vụ khác, làm tuyệt diệt các loại thực bì cùng nhiều loại có hoa khác, làm cạn nguồn thức ăn của ong.
Vì thế nhiều đàn ong phải bay đi rất xa mới kiếm được nhụy hoa về làm mật. Do vậy người nuôi ong Bình Liêu càng quý con ong rừng vốn gắn bó với họ từ nhiều năm nay mà không chọn loại ong khác, vì ong rừng có bộ cánh rất khoẻ, có thể bay đi xa tìm mật.
Trước đây rừng nguyên sinh còn bạt ngàn, ong thường làm tổ ở các thân cây to rỗng, nhất là các cây đã mục. Người có nghề bắt ong quan sát trong đàn ong, rồi nhận biết từ hàng trăm con ong thợ để tìm ra ong chúa bắt về, cầm theo cả bọng ong, là các ong thợ tự theo về.
Ong phân tổ chia đàn vào tháng 3, tháng 4 âm lịch, đó là thời điểm tốt nhất người bắt ong hành nghề mà không sợ bị ong đốt. Vì ong mới tách đàn nên chúng tập trung xây tổ mới của mình, thường tránh đốt người, vì sợ bị gãy vòi chết hoặc không còn vòi để hút nhụy hoa.
Anh Hoàng A Sủi ở bản Loòng Vài, bản xa nhất của xã Hoành Mô, nuôi 40 tổ ong, chủ yếu trong các hốc đá trên đồi theo hướng bán tự nhiên, cho biết: “Nghề nuôi ong phải gắn liền với công tác bảo vệ rừng và phát triển tốt các khu rừng theo hướng phát triển tự nhiên. Mất rừng đồng nghĩa với mất nghề nuôi ong”.
Theo kế hoạch từ nay đến năm 2015, bên cạnh quy hoạch vùng trồng dong riềng, huyện còn quy hoạch vùng trồng rau, vùng nuôi ong mật để từng bước xây dựng thương hiệu “Mật ong Bình Liêu”.
Đối với vùng nuôi ong lấy mật, sẽ phát triển theo hướng tự nhiên, huyện khảo sát, phân tích giá trị mật ong từng khu vực để tìm được vùng nuôi ong cho chất lượng mật tốt nhất.
Quy mô dự kiến khoảng 2.000 hộ nuôi ong ở 50 thôn, bản, cho sản lượng khoảng 120.000 lít mật ong/năm. Việc xây dựng thương hiệu mật ong sẽ tạo điều kiện cho các hộ nghèo, các xã nghèo có nhiều cơ hội phát triển sản xuất, bởi hầu hết các khu rừng cung cấp nhiều hoa đều nằm ở các xã này.
Related news

Lâu nay, bà con nông dân vẫn có tập quán sản xuất theo thời vụ, mùa nào thức ấy. Thế nhưng, với sự hỗ trợ đắc lực của các tiến bộ kỹ thuật, mô hình trồng cây trái vụ đã và đang cho hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn chính vụ. Điều đó được chứng minh thực tế tại huyện Phúc Thọ.

Năm 2014, dự án được triển khai thực hiện ở xã Long An và Thân Cửu Nghĩa (huyện Châu Thành), xã Long Hòa (thị xã Gò Công) và xã Bình Nghị, Tân Đông (huyện Gò Công Đông) với quy mô 55ha/3 huyện/188 hộ tham gia. Nông dân tham gia mô hình được hỗ trợ 100% giống, một phần vật tư chính và được cán bộ kỹ thuật của Trung tâm Khuyến nông hỗ trợ kỹ thuật trong suốt vụ sản xuất, tổng kết, đánh giá hiệu quả mô hình.

Nhìn thấy bà con lối xóm cùng trồng cà phê như mình nhưng năng suất cao, ông đã tự tìm tòi học hỏi từ sách, báo, bạn bè, bà con lối xóm, tìm hiểu vì sao cây cà phê ở vườn nhà không cho năng suất như những nơi khác. Sau đó, ông tham gia các hội thảo đầu bờ, tập huấn chuyển giao khoa học công nghệ. Từ đó, ông hiểu rằng trồng cây cà phê đòi hỏi phải đúng quy trình thì cây mới phát triển tốt được.

Năm 1990, khi còn là một cán bộ y tế xã với đồng lương eo hẹp, ông thường nghe cha mình nhắc về loài cây quý cho thớ gỗ mịn, bền chắc, được dùng làm cái rìu, cây cung… nhưng gần như “tuyệt chủng” trên những cánh rừng Ba Tơ. Với mong muốn khôi phục lại loài cây này trên mảnh đất quê hương, ngoài giờ làm, ông tranh thủ đi rừng hái cây mây nước bán, dành dụm tiền mua cây giống về trồng. “Hồi đó ông anh ở thôn Làng Trui vào tít rừng sâu bên Kon Tum nhổ về bán cho mình với giá 2000 đồng/cây. Mình bỏ gom góp tiền mua một trăm cây về trồng”, ông Nấu nhớ lại.

Tham gia mô hình, nông dân được công ty hỗ trợ hoàn toàn giống lúa nguyên chủng, được hỗ trợ kỹ thuật và công vận chuyển khi thu hoạch về nhà máy. Với năng suất trung bình khoảng 350 - 400 kg/công, sau khi trừ chi phí sản xuất, nông dân lời 4,5 - 5 triệu đồng. Hiện nay, Công ty Cổ phần Giống cây trồng miền Nam đang tiếp túc mở rộng diện tích của mô hình lúa lai ở xã Long Trị A với diện tích khoảng 50ha trong vụ Đông xuân tiếp theo.