Nuôi Động Vật Hoang Dã Đầu Ra Còn Bấp Bên
Những năm gần đây, trên địa bàn Dak Lak phong trào chăn nuôi động vật có nguồn gốc hoang dã như heo rừng, nai, nhím, chồn, cá sấu, rắn... đang phát triển khá mạnh và trở thành hướng đi mới cho ngành Chăn nuôi tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công bước đầu, mô hình này cũng đang gặp không ít khó khăn trở ngại, nhất là về thị trường tiêu thụ.
Giá trị kinh tế cao
Trong khi chăn nuôi bò, heo, gia cầm liên tiếp đối mặt với nhiều dịch bệnh nguy hiểm thì một số người chăn nuôi bắt đầu chuyển sang nuôi động vật hoang dã như: heo rừng, chồn, nhím, nai, rắn… bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế khá cao. Đơn cử như ở xã Cư Êbur, TP. Buôn Ma Thuột, địa bàn đang nắm giữ kỷ lục là vùng nuôi nai tập trung của cả tỉnh với 593 hộ nuôi 2.500 con nai. Theo người dân nơi đây, con nai có mặt ở vùng đất này khá lâu, tuy nhiên, nghề nuôi nai chỉ phát triển mạnh mẽ trong vòng 10 năm trở lại đây và con nai thực sự đang giúp người dân thoát nghèo, vươn lên làm giàu.
Ông Trần Duy Thoan, thôn 2 cho hay, gia đình nuôi 6 con nai, bình quân một năm cho thu nhập trên 100 triệu đồng từ tiền bán nhung, chưa kể tiền bán con giống. Hay hộ anh Trần Quang Quyền, nuôi 6 con, trong đó có 2 con lấy nhung, mỗi năm cho thu hoạch khoảng 10kg nhung, với giá bán trên, dưới 7 triệu đồng/kg, đã cho gia đình anh có một nguồn thu gần cả trăm triệu đồng. Theo anh Trần Trọng Khánh, trưởng thôn 2 cho biết, nuôi nai khá dễ, con nai có thể ăn mọi thứ thức ăn từ cỏ đến vỏ mít, cùi sầu riêng, cùi và vỏ ngô; nai lại sống rất khỏe, ít bệnh tật. Vì vậy, ngoài vốn đầu tư con giống ban đầu và xây dựng chuồng trại, thì chi phí thức ăn, công chăm sóc không nhiều, nên lợi nhuận thu được hàng năm từ nai khá cao. Hiện nuôi nai tập trung chủ yếu ở thôn 2, bà con cũng đang dần hướng đến việc liên kết và xây dựng thương hiệu để sản phẩm có đầu ra ổn định.
Mặc dù đã qua thời hoàng kim, nhưng nuôi nhím cũng được nhiều nông dân lựa chọn bởi vốn đầu tư không cao, kỹ thuật chăn nuôi cũng đơn giản. Một trong những hộ thành công trong nuôi nhím phải kể đến hộ chị Vi Thị Thanh Liễu, phường Tự An, TP. Buôn Ma Thuột. Chị kể, chị bắt đầu nghề nuôi nhím bằng một con nhím được cho, sau một thời gian thấy nuôi nhím không mấy khó khăn, chị quyết định triển khai kế hoạch phát triển nhím từ đầu năm 2005. Vừa nuôi, vừa học hỏi vừa rút kinh nghiệm, từ 2009 đến nay đàn nhím của gia đình đã phát triển 400 con, trong đó có 70 nhím mẹ sinh sản. Với giá bán 250.000 đồng/kg nhím thịt và 3 triệu đồng/cặp nhím giống (từ 2,5-3 tháng tuổi), chị ước tính thu khoảng 400 triệu đồng/năm.
Và còn rất nhiều mô hình về nuôi heo rừng, rắn, dúi… đem lại hiệu quả và giá trị kinh tế cao cho người chăn nuôi. Tuy nhiên, việc chăn nuôi tự phát, theo phong trào đã khiến người chăn nuôi chịu nhiều rủi ro về đầu ra sản phẩm cũng như gặp khó khăn trong quản lý dịch bệnh…
Cần có sự liên kết
Giá trị kinh tế cao từ sản phẩm của động vật hoang dã được nuôi nhốt thì ai cũng nhìn thấy, tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một hộ chăn nuôi nào bảo đảm được đầu ra ổn định cho sản phẩm của mình và bài toán từ con nhím là một minh chứng. Năm từ 2007-2009 được xem là thời đại hoàng kim của nhím bởi giá nhím giống có lúc được đẩy lên 30 triệu đồng/cặp, nhím thịt từ 600-700 nghìn đồng/kg cũng không có sản phẩm để bán. Thế là nông dân đổ xô đi nuôi nhím; địa phương nào cũng thấy xuất hiện các mô hình nuôi nhím.
Đến năm 2010, giá nhím đột ngột rớt thê thảm, từ 30 triệu đồng xuống còn dưới 3 triệu đồng/cặp nhím giống, nhím thịt còn dưới 200 nghìn đồng/kg nhưng cũng không có đầu ra, rất nhiều nông dân đã đổ nợ vì con nhím. Đến thời điểm này, giá nhím đang ở giá trị thực của sản phẩm, mặc dù không cao nhưng cũng bảo đảm được nguồn thu khá cho nông dân, tuy đầu ra vẫn chưa thật sự ổn định. Trước vấn đề này, bà Tống Thị Điệp, Chủ tịch Hội nông dân thành phố đánh giá: nông dân đang hướng vào chăn nuôi động vật hoang dã là hướng đi mới, có sự năng động trong việc đánh giá nhu cầu thị trường. Thế nhưng để hướng đi này được bền vững, nông dân cần tạo được mối liên kết để tìm kiếm thị trường tiêu thụ, tiến tới xây dựng thương hiệu cho sản phẩm. Có như vậy, việc chăn nuôi của họ mới có điều kiện phát triển về cả quy mô lẫn chất lượng.
Trong khi chưa tạo được sự liên kết giữa các hộ chăn nuôi, thì nhiều nông dân đã năng động, tạo được chỗ đứng ổn định cho sản phẩm của mình trên thị trường, như hộ anh Hoàng Văn Tá, Buôn Ky, phường Thành Nhất, đã chọn heo rừng lai để nuôi, tuy nhu cầu thị trường nhiều nhưng đầu ra sản phẩm vẫn còn khá bấp bênh. Trước thực tế trên, anh mạnh dạn xây dựng mô hình khép kín từ chăn nuôi đến chế biến, kinh doanh sản phẩm heo rừng. Bên cạnh các đầu mối là nhà hàng, quán ăn, nếu người mua trực tiếp đặt hàng và có nhu cầu chế biến thì đều được anh đáp ứng.
Anh cũng xây dựng một quán thực phẩm chuyên về heo rừng vừa để tiêu thụ sản phẩm vừa giới thiệu cho nhiều người biết đến. Bởi vậy, trang trại của anh hiện có 150 con heo, trong đó có 20 heo nái, 1 heo đực thuần, còn lại heo con và heo thương phẩm nhưng cũng không đủ cung cấp cho thị trường. Hay hộ chị Vi Thị Thanh Liêu cũng vậy, trước “sóng gió” của giá nhím bấp bênh làm nhiều hộ điêu đứng thì gia đình chị vẫn duy trì được đàn nhím bằng cách chỉ bán nhím trên một năm tuổi (thịt nhím lúc này mới dai và ngon), vừa bán nhím thịt vừa khuyến mại luôn việc chế biến và nấu sẵn. Theo chị Liễu, nhiều người thích ăn nhím nhưng không biết cách làm và chế biến các món ăn, nắm được tâm lý này vợ chồng chị đã đi học nghề nấu nướng. Ai có nhu cầu, chỉ cần gọi điện thoại đặt hàng là vợ chồng chị bắt nhím, làm thịt chế biến sẵn và đem đến tận nhà. Nhờ vậy, việc làm ăn của gia đình chị ngày càng phát triển và được nhiều người biết đến.
Tuy nhiên, đây chỉ là một trong số ít nông dân thành công trong việc tìm kiếm và giữ vững thị trường tiêu thụ, vẫn còn nhiều nông dân chăn nuôi quy mô nhỏ lẻ cần sự liên kết, chung tay của 4 nhà để phát triển và xa hơn là để những nghề mới của ngành chăn nuôi Dak Lak có thêm điều kiện phát triển không bị chết ỉu.Những năm gần đây, trên địa bàn Dak Lak phong trào chăn nuôi động vật có nguồn gốc hoang dã như heo rừng, nai, nhím, chồn, cá sấu, rắn... đang phát triển khá mạnh và trở thành hướng đi mới cho ngành Chăn nuôi tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công bước đầu, mô hình này cũng đang gặp không ít khó khăn trở ngại, nhất là về thị trường tiêu thụ.
Giá trị kinh tế cao
Trong khi chăn nuôi bò, heo, gia cầm liên tiếp đối mặt với nhiều dịch bệnh nguy hiểm thì một số người chăn nuôi bắt đầu chuyển sang nuôi động vật hoang dã như: heo rừng, chồn, nhím, nai, rắn… bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế khá cao. Đơn cử như ở xã Cư Êbur, TP. Buôn Ma Thuột, địa bàn đang nắm giữ kỷ lục là vùng nuôi nai tập trung của cả tỉnh với 593 hộ nuôi 2.500 con nai. Theo người dân nơi đây, con nai có mặt ở vùng đất này khá lâu, tuy nhiên, nghề nuôi nai chỉ phát triển mạnh mẽ trong vòng 10 năm trở lại đây và con nai thực sự đang giúp người dân thoát nghèo, vươn lên làm giàu. Ông Trần Duy Thoan, thôn 2 cho hay, gia đình nuôi 6 con nai, bình quân một năm cho thu nhập trên 100 triệu đồng từ tiền bán nhung, chưa kể tiền bán con giống.
Hay hộ anh Trần Quang Quyền, nuôi 6 con, trong đó có 2 con lấy nhung, mỗi năm cho thu hoạch khoảng 10kg nhung, với giá bán trên, dưới 7 triệu đồng/kg, đã cho gia đình anh có một nguồn thu gần cả trăm triệu đồng. Theo anh Trần Trọng Khánh, trưởng thôn 2 cho biết, nuôi nai khá dễ, con nai có thể ăn mọi thứ thức ăn từ cỏ đến vỏ mít, cùi sầu riêng, cùi và vỏ ngô; nai lại sống rất khỏe, ít bệnh tật. Vì vậy, ngoài vốn đầu tư con giống ban đầu và xây dựng chuồng trại, thì chi phí thức ăn, công chăm sóc không nhiều, nên lợi nhuận thu được hàng năm từ nai khá cao. Hiện nuôi nai tập trung chủ yếu ở thôn 2, bà con cũng đang dần hướng đến việc liên kết và xây dựng thương hiệu để sản phẩm có đầu ra ổn định.
Mặc dù đã qua thời hoàng kim, nhưng nuôi nhím cũng được nhiều nông dân lựa chọn bởi vốn đầu tư không cao, kỹ thuật chăn nuôi cũng đơn giản. Một trong những hộ thành công trong nuôi nhím phải kể đến hộ chị Vi Thị Thanh Liễu, phường Tự An, TP. Buôn Ma Thuột. Chị kể, chị bắt đầu nghề nuôi nhím bằng một con nhím được cho, sau một thời gian thấy nuôi nhím không mấy khó khăn, chị quyết định triển khai kế hoạch phát triển nhím từ đầu năm 2005. Vừa nuôi, vừa học hỏi vừa rút kinh nghiệm, từ 2009 đến nay đàn nhím của gia đình đã phát triển 400 con, trong đó có 70 nhím mẹ sinh sản. Với giá bán 250.000 đồng/kg nhím thịt và 3 triệu đồng/cặp nhím giống (từ 2,5-3 tháng tuổi), chị ước tính thu khoảng 400 triệu đồng/năm.
Và còn rất nhiều mô hình về nuôi heo rừng, rắn, dúi… đem lại hiệu quả và giá trị kinh tế cao cho người chăn nuôi. Tuy nhiên, việc chăn nuôi tự phát, theo phong trào đã khiến người chăn nuôi chịu nhiều rủi ro về đầu ra sản phẩm cũng như gặp khó khăn trong quản lý dịch bệnh…
Cần có sự liên kết
Giá trị kinh tế cao từ sản phẩm của động vật hoang dã được nuôi nhốt thì ai cũng nhìn thấy, tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một hộ chăn nuôi nào bảo đảm được đầu ra ổn định cho sản phẩm của mình và bài toán từ con nhím là một minh chứng. Năm từ 2007-2009 được xem là thời đại hoàng kim của nhím bởi giá nhím giống có lúc được đẩy lên 30 triệu đồng/cặp, nhím thịt từ 600-700 nghìn đồng/kg cũng không có sản phẩm để bán. Thế là nông dân đổ xô đi nuôi nhím; địa phương nào cũng thấy xuất hiện các mô hình nuôi nhím.
Đến năm 2010, giá nhím đột ngột rớt thê thảm, từ 30 triệu đồng xuống còn dưới 3 triệu đồng/cặp nhím giống, nhím thịt còn dưới 200 nghìn đồng/kg nhưng cũng không có đầu ra, rất nhiều nông dân đã đổ nợ vì con nhím. Đến thời điểm này, giá nhím đang ở giá trị thực của sản phẩm, mặc dù không cao nhưng cũng bảo đảm được nguồn thu khá cho nông dân, tuy đầu ra vẫn chưa thật sự ổn định. Trước vấn đề này, bà Tống Thị Điệp, Chủ tịch Hội nông dân thành phố đánh giá: nông dân đang hướng vào chăn nuôi động vật hoang dã là hướng đi mới, có sự năng động trong việc đánh giá nhu cầu thị trường. Thế nhưng để hướng đi này được bền vững, nông dân cần tạo được mối liên kết để tìm kiếm thị trường tiêu thụ, tiến tới xây dựng thương hiệu cho sản phẩm. Có như vậy, việc chăn nuôi của họ mới có điều kiện phát triển về cả quy mô lẫn chất lượng.
Trong khi chưa tạo được sự liên kết giữa các hộ chăn nuôi, thì nhiều nông dân đã năng động, tạo được chỗ đứng ổn định cho sản phẩm của mình trên thị trường, như hộ anh Hoàng Văn Tá, Buôn Ky, phường Thành Nhất, đã chọn heo rừng lai để nuôi, tuy nhu cầu thị trường nhiều nhưng đầu ra sản phẩm vẫn còn khá bấp bênh. Trước thực tế trên, anh mạnh dạn xây dựng mô hình khép kín từ chăn nuôi đến chế biến, kinh doanh sản phẩm heo rừng. Bên cạnh các đầu mối là nhà hàng, quán ăn, nếu người mua trực tiếp đặt hàng và có nhu cầu chế biến thì đều được anh đáp ứng.
Anh cũng xây dựng một quán thực phẩm chuyên về heo rừng vừa để tiêu thụ sản phẩm vừa giới thiệu cho nhiều người biết đến. Bởi vậy, trang trại của anh hiện có 150 con heo, trong đó có 20 heo nái, 1 heo đực thuần, còn lại heo con và heo thương phẩm nhưng cũng không đủ cung cấp cho thị trường. Hay hộ chị Vi Thị Thanh Liêu cũng vậy, trước “sóng gió” của giá nhím bấp bênh làm nhiều hộ điêu đứng thì gia đình chị vẫn duy trì được đàn nhím bằng cách chỉ bán nhím trên một năm tuổi (thịt nhím lúc này mới dai và ngon), vừa bán nhím thịt vừa khuyến mại luôn việc chế biến và nấu sẵn. Theo chị Liễu, nhiều người thích ăn nhím nhưng không biết cách làm và chế biến các món ăn, nắm được tâm lý này vợ chồng chị đã đi học nghề nấu nướng. Ai có nhu cầu, chỉ cần gọi điện thoại đặt hàng là vợ chồng chị bắt nhím, làm thịt chế biến sẵn và đem đến tận nhà. Nhờ vậy, việc làm ăn của gia đình chị ngày càng phát triển và được nhiều người biết đến.
Tuy nhiên, đây chỉ là một trong số ít nông dân thành công trong việc tìm kiếm và giữ vững thị trường tiêu thụ, vẫn còn nhiều nông dân chăn nuôi quy mô nhỏ lẻ cần sự liên kết, chung tay của 4 nhà để phát triển và xa hơn là để những nghề mới của ngành chăn nuôi Dak Lak có thêm điều kiện phát triển không bị chết ỉu.
Related news
Măng tây đang được người tiêu dùng ưa chuộng. Đây là “thứ rau hoàng đế” thơm thảo có chứa nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể, được xem như một loại thuốc kích dục tự nhiên quý giá…
Cây bơ được du nhập vào Tây Nguyên từ những năm 1940, và phát triển mạnh do phù hợp khí hậu thổ nhưỡng. Tuy nhiên, do ít có giống tốt lại nhiều sâu bệnh, chính người trồng cũng hiếm khi được thưởng thức bơ ngon.
Liên tiếp trong 4 đêm vừa qua, người dân 2 xã An Thạch và An Dân (huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên) trúng đậm cá chình giống, bình quân mỗi đêm mỗi cặp xúc cá chình (hai người) bắt được 600 - 800 con, trường hợp trúng luồng bắt được hơn 1.300 con.
Chiều ngày 5.4, tại cuộc họp bàn và triển khai các biện pháp kiểm soát chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm, Bộ NN-PTNT đã công bố kết quả giám sát chất cấm thuộc nhóm beta agonists.
Ông Nguyễn Chí Trung, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang, cho biết nông dân vùng nuôi nghêu xuất khẩu ven cửa Tiểu thuộc các xã Tân Thành, Tân Điền (Gò Công Đông) đang phấn khởi bởi nghêu thịt đang có giá cao, hứa hẹn một vụ nuôi mới bội thu.