Hội Thảo Liên Kết Trong Sản Xuất Lúa Gạo Xuất Khẩu

Trong khuôn khổ Hội chợ Làng nghề Việt Nam lần thứ X – Craft Viet 2014 (diễn ra từ ngày 11 – 15/9/2014), cuối tuần qua, BTC Hội chợ đã tổ chức Hội thảo “Vai trò của HTX tham gia chuỗi giá trị trong liên kết SX”.
Tại hội thảo này, Ths. Trần Xuân Long, Trưởng phòng Quản lý Xuất khẩu gạo (Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương) đã đóng góp nhiều ý kiến xung quanh mối liên kết giữa nông dân và DN XK gạo hiện nay.
Theo ông Trần Xuân Long, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng lộ trình thực hiện chủ trương kinh doanh XK gạo phải có vùng nguyên liệu hoặc hợp tác, liên kết, đặt hàng với hộ nông dân trồng lúa, Bộ Công Thương phối hợp cùng Bộ NN-PTNT, Hiệp hội Lương thực Việt Nam đã tổ chức xây dựng Cánh đồng lớn (CĐL) và các mô hình liên kết khác tại 10 tỉnh gồm: An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long và một số địa phương vùng ĐBSH như Hưng Yên, Thái Bình và khu vực miền Trung là tỉnh Nghệ An.
Riêng vùng ĐBSCL, theo số liệu báo cáo sơ bộ của các địa phương, diện tích mô hình CĐL đang tiếp tục được nhân rộng, từ khoảng 55 ngàn ha năm 2013 tăng lên khoảng hơn 100 ngàn ha trong vụ ĐX 2014, chiếm khoảng 10% tổng diện tích quy hoạch SX lúa hàng hóa XK và khoảng gần 6% tổng diện tích SX lúa toàn vùng.
Nếu tính cả các phương thức liên kết khác thì tổng diện tích lúa có liên kết ở vùng ĐBSCL hiện khoảng trên 121 ngàn ha.
Các hình thức liên kết SX – tiêu thụ đã mang lại những kết quả tích cực cho cả nông dân lẫn DN tham gia liên kết.
Trong lĩnh vực chăn nuôi, tại hội thảo, nhiều ý kiến cũng cho biết các mô hình HTX chăn nuôi hiện đang gặp rất nhiều khó khăn. Ông Trần Văn Chiến, Chủ nhiệm HTX Chăn nuôi Cổ Đông (Sơn Tây, Hà Nội) dẫn chứng: Hiện nay, các DN nước ngoài vốn có tiềm lực khổng lồ lại đang được Nhà nước bảo hộ thuế thức ăn, trong khi nông dân chăn nuôi nhỏ lại phải chịu thuế thức ăn 5% thuế VAT, lại do đại lí điều tiết ép giá.
Cụ thể, nông dân nhờ tăng năng suất, giảm chi phí, hạ giá thành SX, mức lợi nhuận thu được cao hơn từ 3-5 triệu đ/ha so với SX cá thể truyền thống.
Trong khi đó, các DN tham gia liên kết có vùng nguyên liệu chất lượng, ổn định, đảm bảo các yêu cầu kiểm soát ATTP và nguồn gốc sản phẩm, góp phần xây dựng thương hiệu và nâng cao khả năng cạnh tranh...
Bên cạnh đó, liên kết SX giúp tăng khả năng đầu tư cho SX lúa, tạo điều kiện áp dụng đồng bộ các tiến bộ KH-KT trên quy mô lớn, hệ thống hạ tầng thủy lợi, giao thông được nâng cấp, đầu ư đáp ứng yêu cầu phục vụ SX lúa.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tế triển khai liên kết tại các địa phương hiện nay cũng đang đã bộc lộ những khó khăn, vướng mắc cần phải sớm được tháo gỡ. Đặc biệt thời gian qua, đã xuất hiện những bất đồng phát sinh ngay từ khâu thỏa thuận ban đầu do các quy định trong hợp đồng liên kết về chất lượng, ẩm độ, tạp chất, giá cả, cách thức cân đong, vận chuyển, giao nhận, đánh giá, định giá... sản phẩm khi thu hoạch khá phức tạp...
Tình trạng này khiến nhiều hợp đồng liên kết bị phá vỡ còn khá phổ biến. Trong khi đó, việc quy định và áp dụng các biện pháp chế tài khi nông dân và DN vi phạm thỏa thuận gặp nhiều khó khăn.
Trên thực tế, việc khởi kiện, áp dụng các biện pháp xử lý đối với nông dân vi phạm hợp đồng liên kết theo quy định của pháp luật hầu như rất khó có thể thực hiện được trên thực tế.
Về phía DN, nhiều nơi chưa tích cực mua thóc, gạo trực tiếp từ nông dân, thả lỏng hoạt động thu mua cho đội ngũ thương lái, kể cả trong liên kết CĐL, trong đó có nguyên nhân do năng lực của DN yếu, nhất là năng lực về vốn, tài chính cũng như cơ sở vật chất như lò sấy, phương tiện vận chuyển, đội ngũ nhân lực (thủ kho, kiểm phẩm, giám sát kỹ thuật, nhân công bốc vác)...
Đối với các HTX và các tổ chức đại diện cho nông dân, Ths. Trần Xuân Long đánh giá năng lực tổ chức quản lý và nhận thức của HTX, THT đa số chưa đáp ứng yêu cầu đại diện cho nông dân, lại thiếu vốn, thiếu cơ sở vật chất, phương tiện vận chuyển phục vụ SX, thu mua. Điều này khiến nhiều nơi, HTX có biểu hiện trở thành một khâu trung gian mới khiến nông dân tham gia liên kết không tin tưởng ủng hộ.
Related news

Những tháng đầu năm 2015, thời tiết diễn biến phức tạp, nắng nóng kéo dài, xen lẫn những cơn mưa trái mùa làm cho việc quản lý môi trường ao nuôi tôm trở lên khó khăn hơn, tạo điều kiện cho dịch bệnh trên tôm bùng phát, gây thiệt hại cho người nuôi.

Để kiểm soát tốt dịch bệnh trên nuôi thủy sản, chủ yếu là các vùng nuôi tôm nước mặn, lợ giảm thiệt hại cho người nuôi tôm và giảm thiểu tồn dư kháng sinh trong sản phẩm thủy sản, trong vụ tôm 2015, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) đã chỉ đạo các ngành liên quan tăng cường công tác thú y thủy sản.

Thời gian qua, các ngành chức năng và các địa phương trên toàn tỉnh Quảng Bình đã tích cực khuyến cáo, hướng dẫn người dân ứng dụng công nghệ sinh học (CNSH) vào sản xuất, đặc biệt là sử dụng chế phẩm sinh học một cách rộng rãi trong nuôi tôm như: EM, Probiotic, Prebiotic... nhằm xử lý môi trường ao nuôi thay thế việc xử lý bằng hóa chất; các loại chế phẩm sinh học bổ sung men đường ruột để hỗ trợ tiêu hóa giảm hệ số thức ăn, nâng cao sức đề kháng phòng trừ dịch bệnh.

Cá sông Đà từ lâu đã trở thành nhu cầu thưởng thức ẩm thực của người dân trong và ngoài tỉnh. Chưa được chính thức công nhận, nhưng cá sông Đà trong tâm thức của nhiều người đã là thương hiệu. Thương hiệu bởi được nuôi dưỡng và phát triển ở vùng hồ đặc thù, lưu vực lớn tập hợp trên một trăm loài cá, là vùng nước sạch chưa bị tàn phá bởi ô nhiễm môi trường.

Theo Sở NN-PTNT Phú Yên, đến nay đã có hơn 100ha tôm nuôi tại các huyện Đông Hòa, Tuy An và TX Sông Cầu bị chết do dịch bệnh và thời tiết nắng nóng.