Dùng Phân NPK Văn Điển Cho Cây Đậu Tương

Đậu tương đông trên đất sau lúa mùa là cơ cấu cây trồng quan trọng có tác dụng cải tạo, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tăng thu nhập, tăng công ăn việc làm cho bà con nông dân...
Tuy nhiên, vụ đông ở miền Bắc thường được bắt đầu từ trung tuần tháng 9 và kết thúc cuối tháng Giêng năm sau, đầu vụ mưa nhiều cây khó phát triển, cuối vụ khô lạnh, số giờ nắng trong ngày thấp, thậm chí nhiều ngày không có nắng làm cho cây trồng tổng hợp chất khô gặp nhiều khó khăn do hiệu suất quang hợp thấp, nếu không có biện pháp gieo trồng, chăm sóc đúng, đặc biệt cung ứng đủ dinh dưỡng, năng suất cây đậu có thể sẽ không cao. Để giúp bà con biện pháp trồng đậu tương đạt hiệu quả, chúng tôi giới thiệu kỹ thuật bón phân NPK Văn Điển chuyên dùng cho cây đậu tương vụ đông.
1. Cơ cấu giống:
- Trà sớm: Gieo trước 25.9, dùng giống dài ngày (95 ngày), năng suất cao DT2008 (80 – 100 kg/sào).
- Trà trung: Gieo trước 5.10, dùng giống trung ngày 80 – 90 ngày DT84, DT96, DT90, DT 2001, AK06, ĐT26, ĐVN6, ĐVN9 (năng suất 60 kg/sào).
- Trà muộn: Gieo trước 10.10, dùng các giống ngắn ngày có thời gian 70 – 75 ngày như DT 99, ĐT 12 (năng suất 40 – 50 kg/sào).
- Lượng giống gieo: 2,5 – 3kg/sào (65 - 70kg/ha), nếu gieo vãi cần 3-4 kg/sào (90 – 100 kg/ha), tỷ lệ nảy mầm phải đạt trên 70%, trước khi gieo nên phơi 2-3 giờ ngoài nắng nhẹ để kích thích hạt nảy mầm.
2. Mật độ cây: Mật độ gieo trung bình 45 - 55 cây/m2 (30 x 12 cm/cây), riêng DT2008 gieo 30 cây/m2 (35 x 15 cm/cây).
3. Nhu cầu dinh dưỡng
Đất sản suất vụ đông là đất sau vụ lúa mùa, thu hoạch đến đâu làm đất gieo trồng đến đó, đất không được nghỉ, các chất dinh dưỡng trong đất đều cạn kiệt do cây trồng vụ trước lấy đi, đồng thời để lại một lượng hữu cơ tươi (gốc, rễ lúa). Khi phân hủy làm tăng độ chua cho đất ảnh hưởng đến môi trường phát triển cây trồng, bên cạnh đó phân hữu cơ giảm sút, nhiều nơi trồng chay đất nghèo kiệt các chất dinh dưỡng thiết yếu cho cây.
Vào vụ đông, nhiệt độ xuống thấp hơn, hệ thống nốt sần tự tổng hợp chất đạm của cây đậu tương hoạt động kém, để cây sinh trưởng phát triển cân đối, năng suất cao, quả và hạt chắc mẩy, đề kháng sâu bệnh, chống đổ ngã tốt cần có tới 19 nguyên tố thiết yếu cho sinh trưởng và phát triển.
Phân chuyên dụng cho đậu tương: Nhằm đơn giản và cải thiện quy trình bón phân cho cây đậu tương, Công ty CP Phân lân nung chảy Văn Điển đã hợp tác với các nhà khoa học nghiên cứu công thức phân tổng hợp gọi là phân bón đa yếu tố chuyên dụng cho cây đậu lạc, phân có nhiều đặc điểm ưu việt phù hợp với cây đậu tương do mang nhiều chất hữu ích hơn các loại phân tổng hợp khác:
Thành phần phân bón: Ngoài các chất đa lượng N (đạm), P (lân), K (kali) còn có các chất trung lượng S, CaO, MgO, SiO2 và hàng chục loại chất vi lượng như Mn, B, Zn, Cu, Co… bảo đảm cho cây sinh trưởng phát triển cân đối, đề kháng tốt với sâu bệnh, đổ ngã, đạt năng suất và chất lượng cao trên các loại đất chua, đất bạc màu.
Với thành phần cơ bản là lân nung chảy, đây là phân tan chậm, giảm thiểu trôi rửa, tiết kiệm phân bón, giúp cân đối dinh dưỡng, cải thiện chất đất, 1kg lân nung chảy có tác dụng giảm độ chua tương đương 0,5kg vôi, có tác dụng kích thích dinh dưỡng cho bộ rễ, giúp cho hệ thống nốt sần phát triển.
Phân chuyên cho cây đậu (4N:12P:7K) được sản xuất chuyên cho bón lót có công thức 4%N: 12P205: 7K20: 2S: 10MgO: 20CaO: 15SiO2 và các vi lượng.
4. Kỹ thuật sử dụng phân bón
Cách bón cho đất ướt dùng lối gieo vãi hoặc gieo gốc rạ: Tập trung và kết thúc gọn trong 23 ngày trước khi đậu có hoa.
Lượng bón: Đạm urê: 112 kg/ha (4 kg/sào), phân lân nung chảy: 420 kg/ha (15kg/sào BB), kali clorua: 112 kg (4 kg/sào) hoặc dùng 20kg phân NPK đa yếu tố chuyên dụng đậu lạc (560kg/ha).
Bón thúc lần I: Khi đậu có 1 lá thật (lá nhặm 3 thùy), dùng cho 1 sào BB: Trộn đều 2kg đạm urê + 1 kg kali + 15kg lân nung chảy (cho 1 ha: 56kg đạm urê, 28 kg kali, 420kg lân nung chảy) hoặc 20kg phân đa yếu tố chuyên dụng đậu lạc 4:12:7 (cho 1ha: 560kg), rắc đều trên mặt ruộng vào chiều mát lúc lá đậu khô. Tránh bón phân khi lá đậu còn ướt, đặc biệt không bón buổi sáng còn ướt sương hoặc sau mưa dễ gây cháy lá.
Bón thúc lần II: Khi đậu có 5 – 6 lá thật, chuẩn bị ra hoa, trộn đều lượng phân còn lại (cho 1 sào: 2kg kali + 3kg đạm urê, cho 1ha: 56kg kali + 84kg đạm) rải đều trên ruộng, nếu dùng phân đa yếu tố thì bón thúc bằng 84kg kali/ha (3 kg/sào Bắc Bộ).
Related news

Năm 2010, Phòng NN-PTNT huyện Châu Thành (Kiên Giang) đã triển khai mô hình trồng đậu nành trên nền đất lúa theo phương pháp “không làm đất” trên diện tích hơn 10ha mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ưu điểm của phương pháp này là rút ngắn được thời gian mùa vụ, giảm chi phí…

Các loại đậu đỗ nói chung do lớp vỏ mỏng nên khả năng bảo vệ kém, lại chứa nhiều protein và chất béo (2 - 20%) nghĩa là những chất dễ phân giải. Mặt khác đậu đỗ lại là nguồn thức ăn rất tốt cho vi sinh vật và côn trùng phá hoại mạnh, rất dễ bị mốc, oxy hoá, lượng axit béo tăng lên, phẩm chất của đậu đỗ giảm xuống. Thuỷ phần của hạt 15 - 16% và bảo quản trong điều kiện nhiệt độ cao sẽ rất dễ dẫn đến hiện tượng tự bốc nóng.

Trung tâm Nghiên cứu & phát triển đậu đỗ (Viện Khoa học Nông nghiệp VN) vừa chọn tạo thành công và khuyến cáo các địa phương đưa vào gieo trồng giống đậu tương cao sản DT51.

Triệu chứng bệnh Bệnh có thể tấn công suốt giai đoạn sinh trưởng của cây, thường gây thiệt hại nặng cho cây con. Cây con: cổ thân bị úng và teo tóp lại, cây bị ngã ngang nhưng lá vẫn còn xanh tươi, sau đó mới héo lại. Bệnh thường tấn công mạnh vào 5-10 ngày sau khi gieo.

Mục đích: Cải tạo đất và có thêm thu nhập cải thiện đời sống gia dình. Bước 1: Chuẩn bị làm đất - Phát cỏ, dọn sạch đổ thành đống và đốt, sau đó dùng Trâu cày - Thời gian cày vào khoảng đầu tháng 7 dương lịch, cày xong phơi để ải trong 15 ngày - Làm luống rộng 35 - 40 cm, cao 20 cm, dài tùy theo nương, đào hốc trồng ngô với hốc cách hốc 30 cm, luống cách luống 25 - 30 cm