Độc tố tảo lam ảnh hưởng đến sức khỏe tôm thẻ chân trắng

Tảo lam (vi khuẩn lam) và tôm
Vi khuẩn lam là sinh vật đơn bào rất nhỏ và phổ biến, mặc dù chúng thường hiện diện ở dạng những tập đoàn lớn.
Những sinh vật thủy sinh quang hợp này là một trong những nhóm vi khuẩn lớn nhất và quan trọng nhất.
Mặc dù tảo lam khá phổ biến trong ao nuôi tôm, nhưng có rất ít các báo cáo nói về các ảnh hưởng về độc tính của chúng đối với tôm nuôi.
Chẳng hạn tại Texas – Hoa Kỳ, sự hiện diện với số lượng lớn của tảo lam Spirulina subsalsa trong dạ dày của tôm xanh Penaeus stylirostris (một đối tượng nuôi khá phổ biến tại châu Mỹ, gần gũi với tôm thẻ chân trắng – người dịch) ở các mô hình nuôi Raceway là nguyên nhân gây ra tình trạng hoại tử biểu mô dạ dày.
Sự nở hoa của Oscillatoria corokiana cùng với các loài tảo lam khác như Spirulina sp., Lyngbya sp., và Nodularia sp. gây chết cho tôm sú nuôi Úc.
Độc tố tảo lam hòa tan trong môi trường nước với hàm lượng dưới mức gây chết có thể dẫn đến sự suy yếu của tôm nuôi và dẫn đến tình trạng làm tăng khả năng nhiễm khuẩn của tôm nuôi.
Báo cáo gần đây của Mexico cho thấy vi khuẩn lam Schizothrix calcicola là nguyên nhân cực kỳ nguyên hiểm gây ra tình trạng tổn thương lớp màng bên ngoài (lining) của hệ tiêu hóa tôm thẻ chân trắng làm ảnh hưởng đến khả năng hấp thu dưỡng chất từ thức ăn.
Kết quả là tôm rất chậm lớn, mặc dù không có trường hợp tôm chết nào được ghi nhận.
Độc tố vi khuẩn lam
Cyanotoxin là chất độc đặc trưng của vi khuẩn lam.
Độc tố vi khuẩn lam được chia làm hai nhóm.
Nhóm thứ nhất bao gồm nhóm các độc tố gây độc cấp tính cho động vật có xương sống, chẳng hạn như độc tố thần kinh và độc tố gan.
Nhóm còn lại tạo thành các phân tử không có khả năng gây chết cao nhưng có ảnh hưởng đối kháng với một số chu trình chuyển hóa sinh trong cơ thể động vật.
Hầu hết độc tố vi khuẩn lam là chất chuyển hóa trung gian được hình thành trong quá trình tạo sắc tố của chúng.
Độc tố này tích lũy trong tế bào chất của vi khuẩn lam dưới một điều kiện đặc biệt nào đó.
Các yếu tố ảnh hưởn đến quá trình hình thành độc tố tảo lam không được biết nhiều, tuy nhiên có vài bằng chứng cho thấy rằng hàm lượng độc tố tăng cao trong suốt chu kỳ sống của vi khuẩn lam qua quá trình sinh sản nhân đôi của chúng hoặc hàm lượng độc tố tăng cao khi các điều kiện thuận lợi cho tảo lam phát triển như nhiệt độ cao, pH cao và cường độ chiếu sáng cao.
Việc gây độc có liên quan đến nhiều loài tảo lam khác nhau như Anabaena, Aphanizomenon, Microcystis, Nostoc, Oscillatoria, Schizothrix, Spirulina, và Trichodesmium.
Thử nghiệm kiểm chứng ảnh hưởng của độc tố tảo lam
Các nhà khoa học tại Ecuador đã tiến hành thí nghiệm kiểm chứng ảnh hưởng của độc tố tảo lam trên tôm thẻ chân trắng.
Các loài tảo lam trong thí nghiệm được phân lập từ các ao nuôi dộ mặn thấp ở Ecuador.
Các chủng loài tảo lam thí nghiệm bao gồm Oscillatoria angustissima, O.brevis, O.subtilissima, Anabaena circinalis, Anabaenopsis circularis.
Tôm thẻ trong thí nghiệm có trọng lượng 0,22 – 0,36 g/con.
Sau 15 ngày thí nghiệm, tỷ lệ sống và tăng trọng bình quân được ghi nhận.
Kết quả thí nghiệm
Sự hiện diện của vi khuẩn lam O.brevis làm giảm tỷ lệ sống của tôm.
Tỷ lệ sống thấp nhất được ghi nhận ở những nghiệm thức có mật độ tảo lam 1.000 và 10.000 sợi khuẩn lam/ml.
Kiểm tra tôm chết cho thấy O.brevis cũng hiện diện trong hệ tiêu hóa của tôm, bít kín mang, bám chặt vào chủy và các phụ bộ miệng.
Các loại tảo lam khác được ghi nhận không có ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ sống của tôm, tỷ lệ sống trong các nghiệm thức thử nghiệm với Oscillatoria sp. dao động từ 43 – 90% so với lô đối chứng, thậm chí với vi khuẩn lam Oscillatoria angustissima còn dẫn đến tăng trọng cao nhất ở cuối kỳ thử nghiệm.
Related news

Điều này giải thích lý do tại sao chất lượng nước suy giảm một cách nhanh chóng có thể gây ra tỷ lệ tử vong cao. Để ngăn chặn sự tích tụ các chất hữu cơ hòa tan, thường xuyên thay nước là cần thiết – có thể thay một phần cho đến thay hoàn toàn nước trong ao hồ; , sự ô nhiễm có thể được giảm thiểu bằng cách loại bỏ các hóa chất gây ô nhiễm bằng cách hấp phụ sử dụng than hoạt tính.

Duy trì nhiệt độ tối ưu, biến động ở mức cao, dẫn đến ảnh hưởng nghiêm trọng trên toàn bộ ao và gây ra nhiệt độ cao trên tôm, bùng phát tảo vv (28-32° C)

Bên dưới là những thông tin chi tiết về các phương pháp phân tích và các thiết bị cần thiết cho các thông số hóa lý và các khía cạnh vi sinh của nước và trầm tích trong ao nuôi trồng thủy sản.

Hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS) kết hợp công nghệ xử lý bổ sung ngoài được sử dụng trong hệ thống nuôi trồng thủy sản tái chế nước cục bộ (PRAS), cho phép tái sử dụng 1 số lượng nước đáng kể. Hệ thống RAS này đạt mức độ kiểm soát tốt hơn bất kỳ ứng dụng công nghệ nào khác trong nuôi trồng thủy sản, mang lại hiệu quả sản xuất cao và lợi ích kinh tế đáng kể.

Hệ thống PRAS áp dụng kĩ thuật xử lý nước, cho phép một phần nước trong ao thủy sản được tái chế và đưa trở lại vào ao. Đối với các cơ sở nuôi trồng thủy sản phải đối mặt với tình trạng khan hiếm nước, các vấn đề về tính bền vững, hay có nhu cầu muốn tăng cường sự kiểm soát các điều kiện trong ao, công nghệ tái chế nước này này chính là bước tiến hóa về công nghệ trong hệ thống nuôi trồng thủy sản hiện đại.